Thursday, August 15, 2024

HCT

10- Sử gia Hoàng Cơ Thụy: Hoàng Cơ Thụy (1912- mất chưa rõ năm) Sinh ngày 24-9-1912 t ại làng Vẽ(Đông Ngạc) tỉnh Hà Đông trong một gia đình lâu đời xuất thân khoa bảng. -Cử nhân luật khoa đại học Hà Nội (1935) -Luật sư cạnh các toà Thượng Thẩm (1938-1969) -Tham gia toàn dân kháng chiến dành Độc Lập (Chánh án toà Sơ Thẩm Bến Tre) -Đại sứ VNCH tại Lào (1969-1975) -Ba lần tù :Tù Việt Minh (1945),tù thưc dân Pháp (1946) và tù VNCH (1964). -Tác phẩm : Việt Sử Khảo Luận NXB Nam Á 2002,một bộ sử đồ sộ gồm 6 quyển với 3928 trang khổ lớn .Soạn liên tục 17 năm từ 1984 đến 2001 trong thời điểm tác giả gần 80 tuổi đời! Giải thưởng Văn Học 2004 Hội Đồng Tuyển Lựa : Nhà văn Võ Phiến, Nhà văn Nguyễn Hưng Quốc, Bác sĩ Trần Văn Tích, Nhà văn Phan Lạc Phúc, Nhà văn Doãn Quốc Sỹ, Giáo sư Trần Gia Phụng Tác phẩm trúng giải Bộ môn biên khảo. Giải danh dự đặc biệt: truy tặng ông Hoàng Cơ Thụy, tác giả bộ Việt sử khảo luận -Long Điền tóm lược các nhận định của sử gia Hoàng Cơ Thụy như sau: Sử gia Hoàng Cơ Thụy có nhận định về những ngày đầu cuộc chiến 1945-1954 như sau: (Trang 1978 quyển 4 VSKL) “Cuốn phim tổng quát:Vụ nổ bất ngờ hai trái bom nguyên tử Mỹ trên bầu trời Nhật Bản vào các ngày 6 và 9 tháng 8 năm 1945, tiếp theo cấp tốc bởi lời tuyên cáo truyền thanh ngày 15tháng 8 của Nhật Hoàng Hiro Hito xin đầu hàng đồng mịnhvô điều kiện và ra ra lệnh cho mọi đạo quân Nhật trên mọi chiến trường phải buông súng, đúng là “Ba cục đá”(trois pavés) liệng vào “cái đầm ếch Đông Dương”( la mare d’Indochine aix grenouilles) . Mọi người ở mọi nơi náo động , cả trong và ngoài bán đảo chữ S….. Vậy đến khi xảy ra ba biến cố bất ngờ vừa nhắc trên, thì đúng lý quân đội Nhật ở Đông Dương phải buông súng, ngồi đợi quân đội Tàu Tưởng và quân đội Anh dến giải giới và giữ gìn an ninh trật tự. Ba dân tộc Việt , Miên, Lào với 3 vị quốc vương la Bảo Đại, Sihanouk và SosavangVong cứ việc yên ổn làm ăn, toạ hưởng kỳ thànhvà hoan hô Đống Minh đến giải phóng. Thật là tốt đẹp. Những kẻ “phá đám”Cộng Sản Việt(có Mỹ giúp) và thực dân Pháp( không còn bị Mỹ phản đối). Về mặt chính trị: Trên đây đã kể những chuẩn bị của Việt Minh một bên, của Pháp Đe Gaulle phe bên kia để cướp đoạt Việt Nam, rồi Miên, Lào trong tay quân đội Nhật. Đặc biệt nữa là hai phe ấy có liên lạc cùng nhau để chuẩn bị cùng đánh Nhật, mà chính Việt Minh đã đi bước trước, ngay từ tháng 5/1944(trang 1938-1941). Thực sự thì cả hai phe muốn chiếm độc quyền thống trị Đông Dương: De Gaule đã tuyên bố công khai rằng ông phải tái lập chủ quyền Pháp tại năm nước:Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, Ai Lao và Cao Miên. Còn Hồ Chí Minh thì giấu kín cái mộng “ làm bá chủ Đông Dương” để sẽ có thể Cộng Sản Hoá toàn thể bán đảo, rồi sau sẽ cùng với Stalin nhuộm đỏ toàn cầu”…… Hồi giữa năm 1945, Hồ Chí Minh –cũng như mọi người- tưởng rằng Nhật sẽ còn chống cự khá lâu, bởi vì họ còn rất nhiều quân lực uy mãnh ở Đông Dương; vậy Hồ phải đi đôi với Đồng Minh(Tàu, Mỹ và luôn cả Pháp De Gaulle) thì may ra mới có cơ hạ được Nhật. Nên HỒ phải đội lốt Quốc Gia để lừa mọi người, nhất là Mỹ. Đó là Hồ áp dụng một chiến lược của Cộng Sản Đệ Tam rằngphải nghiên cứu kỹ xem ai là kẻ thù chính và xem ai là kẻ thù phụ. Hồi 1945, quân đội Nhật ở Đông Dương là kẻ thù chính, còn Pháp của De Gaulle ở tận trời Âu là kẻ thù phụ, vậy Việt Minh nên liên kết Giai Đoạn” với phe De Gaulle( luôn cả phe Tàu Tưởng và Hoa Kỳ ) để đánh đổ Nhật, xong rồi sẽ thanh toán các” bạn giai đoạn” sau( trang 1935). Có biết rõ cái chiến lược gian hùng ấy của Hồ Chí Minh thì ta mới có thể hiển được những biến cố chính trị và quân sự hồi 1945-1946.Bằng không ta sẽ rơi vào hoả mù các cuộc chiến quân sự và chính trị liên miên, hàng nghìn trận chiến Pháp Việt, hàng trăm vụ phản phúc của Hồ Chí Minh.”…. Nói tóm lại, Hồ Chí Minh (có Mỹ-OSS giúp)và De Gaulle (khônhg còn bị Mỹ - Truman chống đối) là những kẻ” phá đám “ (Trouble fête) làm xáo trộn tình hình Việt Miên Lào trong 30 năm chiến tranh(1945-1975) và đến nay(1992) là thêm 17 năm hậu chiến của cả ba Dân Tộc trong ngục tù cộng sản.( trang 1980) a-Hồ Chí Minh và đồng bọn là giặc, là thổ phỉ : “Thiết nghĩ nên giải thích tại sao chúng tôi dùng danh từ “Giặc Việt Cộng”làm nhan đề cho phần VIII bộVSKL nầy .Phải chăng chúng tôi đã lãng quên tư cách một sử gia khách quan ,xông vào vòng bút chiến ,nên mới gọi ông Hồ Chí Minh và đồng bọn là Giặc? Xin thưa rằng không phải . Ngay từ khi bắt đầu soạn bộ Việt Sử nầy năm 1984,chúng tôi đã suy nghĩ và tìm tòi những lý do thầm kín của Việt Minh khi họ chỉ huy cuộc chiến tranh 30 năm máu lửa 1945-1975,tàn sát mấy triệu sinh linh ,nào Việt ,nào Pháp,nào Mỹ ,nào Úc,nào Đại Hàn v.v..Kết luận thấy rằng: 1-Hồi quân đội Pháp của De Gaulle theo chân quân Anh vào Sài gòn với dã tâm tái chiếm Đông Dương ,thì quả thật toàn dân Việt Nam đều tỏ lòng uất hận,ai cũng hăng hái kháng chiến cứu nước.Việt Minh vừa nắm đưọc chính quyền ,lại có sẳn một tổ chức dầy đặctừ Nam chí Băc, để giử vửng quyền Tự Do Độc Lập (lời HCM ngày 2-9-1945)thì đó là một việc rất đáng làm và nên ca ngợi. Song le ,ngay trong khi kháng Pháp,tức Phản Đế,Hồ Chí Minh đã khởi xướng từ năm 1950 chuyện Phản Phong ở những vùng Việt Minh kiểm soát….Chính Hồ Chí Minh và Tổng Bộ Việt Minh,dưới danh hiệu mới là Đảng Lao Động đã chỉ huy cuộc đấu chính trị ấy,tàn sát hơn nửa triệu đồng bào mà họ gọi là giai cấp địa chủ.Hiển nhiênlà không phải để giành Độc Lập. 2-Sau hội nghị Genève ngày 20.7.1954 chia đội đất nước,thì đầu năm 1956 quân đội Pháp phải rút lui ra khỏi hẳn Miền Nam(theo các diều khoản đã thoả thuận cua HĐ).Nhưng Hồ Chí Minh vẫn còn kiếm đủ mọi cách chiếm nốt miền Nam như chôn giấu võ khí , đặt công sản nằm vùng,khủng bố dân quê, ám sát hào mục,rồi đến cuối năm 1960 ,hộ tạo dựng cái goi là “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam”do chính họ cầm đầu ,giả danh là dân Việt Miền Nam tự động đứng lên chống một chính quyền Việt độc tài tham nhũng…Hiển nhiên (việc làm đó)không phải là để dành Độc Lập! 3-Đứng trước nguy cơ bành trướng của ý thứ hệ CS do Việt Minh có cả khối lượng khổng lồ Trung Cộng,Nga Xô, Đông Âuvà Cuba viện trợ ồ ạt,thì các chính phủ Mỹ kế tiếp nhau, đạc biệt là từ năm 1961, đã phải đưa vũ khí rồi quân đội sang giúp bão vệ Miền Nam,với tính cách triệt để phòng vệ chứ không phải là tấn công miền Bắc.Cuộc chiến luôn bị hạn chế vào dưới vĩ tuyến 17,thành ra miền Bắc-ngoại trừ những phi vụ oanh tạc không htể có mục tiêu chiếm đất-đã luôn luôn đưọc thái bìnhyên ổn,làm thành một thánh địa bất khả xâm phạm để nuôi dưởng quân đội của họ xuống xâm lăng miền Nam .Song Việt Minh đã tạo ra những khẩu hiệu “Chống Mỷ Cưú nước”và “chống Mỹ Diệm cứu nước”chỉ cốt để lừa bịp toàn dân Việt Nam và dư luận quốc tế. 4-Vậy chỉ có một lý do khổng thể chối cải là Hồ Chí Minh đã muốn “thống nhất “đất nước dưới quyền độc tôn của Cộng Sản Đệ Tam để có thể xây dựng XHCN và “thiên đường CS trên toàn cỏi VN…. 5-Cái dã tâm chiếm độc quyền thống trị trên toàn quốc để xây dựng XHCN đã được bộc lộ công khai và rỏ rệt nhất sau ngày 30.4.1975mà CS Bắc Việt đã thôn tính xong miền Nam.Họ gạt bỏ Mặt Trận Giải Phóng coi như là múi chanh đã vắt hết nước.Họ công nhiên đặt cho đất nước cái tên “Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nfghiã Việt Nam”: đảng CS trước kia giả danh là đảng Lao Động nay tự công khai tự xưng là đảng Cộng Sản VN(trang 1935)Thiết thực và đau đớn hơn nửa ,cái thiên đường CS đã biến thành điạ ngục cộng sản cho toàn dân,từ Nam chí Bắc ,cho dến ngày nay(1992) chưa chấm dứt. 6-Trong 2,3 năm vừa qua (1989-1991) ý thức hệ CS đã bị khắp hoàn cầu phỉ nhổ,từ Muà Xuân Thiên An Môn (tháng 6/1989) qua những cuộc biểu tình vĩ đại ở Đông Âu ,khiến mọi chế độ Đệ Tam dều sụp đổ,các “thần tượng” Đệ Tam bị hạ bệ,Liên Bang Nga Xô(USSR) tưởng vững như bàn thạch biến tiêu trên mặt địa cầu!Chính Nghiã Dân Chủ Tự Do -của bộ Việt Sử Khảo Luận này-toàn thắng,ngoại trừ ở 4 quốc gia là Cuba,Trung Cộng,Bắc hàn và Việt Nam.Nói cách khác,nhân loại khắp nơi đều đả coi cộng sản là giặc.” (VSKL quyển 4 trang 2011) b- Đảng CSVN không chính thống: “Cho nên chúng tôi phải lên án mọi chính phủ cộng sản Việt Nam từ 1946 đến nay (1998)là vô giá trị đối với Dân Tộc Việt Nam ,tức là không có chính thống.(trang 3759) và ông có đôi lời nhắn nhủ cùng hậu thế, cho thế hệ trẻ tươnglai của Dân Tộc:“Ngày nay ở quốc nội vẫn là đảng Cộng Sản Việt Nam nắm độc quyền ngự trị,mặc dầu họ có chịu thay nền kinh tế tập thể bằng kinh tế thị trường. Độc tài vẫn còn, tham nhũng hối lộ càng tăng tiến.” “Ở Hải Ngoại, các nhóm đảng nổi lên như nấm, nhưng có đảng nào nghĩ đến việc Hưng Quốc ra sao,sau khi đã Phục Quốc? Có ai, hay nhóm nào đã đưa ra một dự thảo chương trình Hưng Quốc theo đúng lập trường Tự Do Dân Chủvà kêu gọi mọi người, sau khi cùng nhau thảo luận, sửa đổi và biểu quyết “HẢY ĐOÀN KẾT CHUNG QUANH CÁI CHƯƠNG TRÌNH HƯNG QUỐC ấy ,chứ không phải chung quanh một lãnh tụ?Bằng không ,thì đến khi ưa may được cầm quyền ,người ta sẽ lại đi ngay vào con đường độc tài tham nhũng như xưa nay.”(trang 3761) (ngưng trích) Nhận định về sử gia Hoàng Cơ Thụy của nhà văn Trần Văn Tích như sau: http://hoinhavanvietnamluuvong.info/plugins/p2_news/printarticle.php?p2_articleid=205 Cuốn “Giặc Việt cộng” của Luật sư Hoàng Cơ Thụy, một phần của tập 9 trong bộ Việt sử khảo luận* cũng tạo nơi độc giả tâm trạng ấy. Trang 2012 xác định. "Cái dã tâm 'chiếm độc quyền thống trị trên toàn quốc để xây dựng xã hội chủ nghĩa' được bộc lộ công khai và rõ rệt sau ngày 30.4.75 mà cộng sản Bắc Việt đã thôn tính xong miền Nam. Họ gạt bỏ Mặt Trận Giải Phóng, coi như là múi chanh đã vắt hết nước. Họ công nhiên đặt cho đất nước cái tên "Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam', đảng Cộng sản trước kia giả danh là 'đảng Lao Động' nay công khai tự xưng là 'đảng Cộng sản Việt Nam'. Thiết thực và đau đớn hơn nữa, cái thiên đường cộng sản đã biến thành địa ngục cộng sản cho toàn dân, từ Nam chí Bắc, đến ngày nay (1992) chưa chấm dứt". Trước đó, trong thư gửi một độc giả ngày 24.9.88, Luật sư họ Hoàng cũng nói rất minh bạch: "Phải viết sao cho (...) đúng theo lập trường độc lập quốc gia, tự do dân chủ". Một cuốn sử trình bày theo lập trường vừa kể, đề cập đến giai đoạn 1945-1975, cho đến nay chưa có ai viết. Đó là thế mạnh của sách. Nó độc quyền cung cấp cho người đọc một cái nhìn tổng thể về các biến cố mà bản thân mình từng là chứng nhân hay đang là nạn nhân. Nhưng đồng thời nó cũng nói lên được những điều phải nói, đáng nói. Trang 2022 bộc bạch cái nhìn của người trong cuộc: "(...) Bọn Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp đã không cần đếm xỉa gì đến những con số khổng lồ quân đội và dân chúng bị giết ở trên mọi chiến trường hay hậu phương, hồi chống Pháp cũng như hồi chống Mỹ: dân chết chứ chúng có chết đâu mà chúng sợ? Can đảm như thế là quá dễ, thế mà cả thế giới, luôn Pháp và Hoa kỳ, đều ngợi khen bọn lãnh tụ cộng sản là can đảm, bền gan và anh hùng". Một cái nhìn của người trong cuộc như thế khác hẳn với cung cách xử sự của những người da trắng da đen từng coi Hồ là thần tượng, từng gọi dân tộc Việt Nam là anh hùng. Chúng ta không hề muốn làm anh hùng theo kiểu mô tả của những ngòi bút phương tây hay châu Phi; một cung cách mô tả mà động cơ là mặc cảm tự ti đối với Hoa kỳ (nên đề cao cuộc chiến chống Mỹ cứu nước: trường hợp những người Pháp, người Anh, người Đức chẳng hạn) hoặc mặc cảm sắc tộc, nên a dua theo đám đệ tử cuồng tín Mác-Lê trên dải đất chữ S (trường hợp điển hình: gã da đen từng nắm giữ Tổ chức Văn hoá Liên Hiệp Quốc đã chủ trương tôn vinh Hồ Chí Minh là nhà văn hoá). Trang 2146 vạch trần tham vọng thực sự, mục đích duy nhất của tập đoàn lãnh tụ cộng sản: "gây nên cái họa chiến tranh ba mươi năm, tàn sát hàng mấy triệu thanh niên Việt, Pháp, Mỹ, Đại Hàn hay ồc Đại Lợi. Để làm gì? Để tự lột mặt nạ sau ngày 30.4.75, tuyên bố công khai Xã hội chủ nghĩa, và... thất bại hoàn toàn mười năm sau". Trang 2149 trình bày quan điểm của nhà luật học phán xét lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: "Hồ Chí Minh chỉ kêu gọi toàn dân 'kháng chiến chống Pháp giành độc lập thống nhất', chứ không thêm rằng 'và để cứu đảng Cộng sản Đông Dương, để cho Đảng có thể đấu tố trí phú địa hào, tịch thu ruộng đất tài sản của đồng bào, xây dựng Xã hội Chủ nghĩa và thiên đường cộng sản'. Đó là sự giấu giếm và gian trá hệ trọng nhất, đã lường gạt toàn dân, khiến cho Việt Minh cộng sản không bao giờ có 'chính thống', ngay từ phút ban đầu (fraus omnia corrumpit = gian trá làm hư hết).” Nơi trang 2091, chúng ta chứng kiến sự gian manh vô sỉ của các ngòi bút viết sử cộng sản khi cuốn Lịch sử Việt Nam 1945-1975 của Hà Nội, xuất bản năm 1987, tường thuật tại trang 15 rằng "đồng chí Võ Nguyên Giáp dẫn đầu phái đoàn Việt Nam đi họp hội nghị trù bị tại Đà lạt" trong khi thực ra chính Nguyễn Tường Tam, trong tư cách Bộ trưởng Ngoại giao, mới là trưởng đoàn hội nghị liên hệ. Trang 2095 kể một cách trung ngôn nghịch nhĩ về một nhân vật hiện đang sinh sống và giao thiệp với tác giả: "(...) đến tận năm 1971 mà ông Hoàng Xuân Hãn vẫn còn tưởng rằng cộng sản Võ Nguyên Giáp làm việc cho dân cho nước, chứ không phải cho Đảng (là điều y giấu kín), thì còn trách chi hai chục triệu đồng bào đã u mê - hay quá sợ sệt - mà như con thiêu thân nhảy vào biển lửa ở Vĩnh Yên, Ninh Bình, Đông Triều (thời De Lattre) hay Điện Biên Phủ (thời Navarre)..." Nếu thêm vài chữ nữa: "Bình Trị Thiên, đường mòn Hồ Chí Minh (thời 'chống Mỹ cứu nước')" thì câu văn này trở thành ngọn đình liệu soi đường cho những Bùi Tín, những Dương Thu Hương cũng như những người "phản kháng" khác. Nên ghi nhận rằng sau ngữ đoạn này còn thêm một câu thấm thía: "Nói cách khác, trong khi ở ngoài miệng Giáp nói rằng 'phải đoàn kết' thì trong lòng y tự nhủ rằng 'chỉ đoàn kết giai đoạn thôi'. Tam (Nguyễn Tường Tam) và Hãn (Hoàng Xuân Hãn) có dại thì tin". Chính sự u mê, mông muội lao đầu vào cái gọi là chiến tranh vệ quốc -- trong khi thực ra là vệ đảng -- trước đây rồi mới đây, vào cái gọi là chiến tranh giải phóng miền Nam của không biết bao nhiêu thanh niên thanh nữ và cả những người trung niên, đã khiến lão Hoàng Quốc Việt có dịp xoa đầu đám quần chúng đó mà ban khen một cách hết sức trịch thượng rằng nhân dân ta rất anh hùng”. c-Qua bộ sử vĩ đại và đầy công phu gồm gần 4000 trang sách khổ lớn, soạn thảo kỹ càng, với tuổi tác trên 80 cho thấy ông Hoàng Cơ Thụy là một chiến sĩ quốc gia kiên trì chiến đấu cho tự do, độc lập và luôn chiến đấu trong mọi tình huống, tuổi già không làm trở ngại những hoài bão của ông đối với Quốc Gia và Dân Tộc. Ông có những nhận định rất tinh tế và chân thật trong cuôc chiến VN, ông là một nhân chứng sống có giá trị trong chức vụ Đại Sứ VNCH tại Vương Quốc Lào và là một sử gia không chuyên nghiệp nhưng bộ sử soạn thảo rất công phu và cập nhật đầy đủ tài liệu lịch sử, rất cần cho thế hệ trẻ VN để tìm hiểu chủ thuyết sai lầm của đảng CSVN cần phải tránh và những hoài bão cuả thế hệ trẻ mong muốn đi tìm con đường phục hưng đất nước.

No comments:

Post a Comment