Saturday, August 31, 2024

-Long Điền tóm lược các nhận định của sử gia Phạm Văn Sơn về cuộc chiến VN 1945-1975 như sau : -Ông Phạm Văn Sơn cho rằng: Xuất phát từ chủ trương của CSQT, vì tuân hành triệt để chủ trương gây bạo loạn, gây chia rẽ giai cấp cua CSQT, nên CSVN đã không đặt quyền lợi của Dân Tộc lên trên mà chỉ lo quyền lợi,nhu cầu của Cộng sản Quốc Tế . -Do hậu quả của những cuộc đấu tố trong Cải cách Ruộng Đất, trong đấu tranh giai cấp, trong cuộc xâm lược Miền Nam bằng mọi giá đã gây hận thù dai dẳng trong gia đình, làm đảo lộn hệ thống xã hội Việt Nam vốn có từ ngàn xưa. -Vì tuân hành những chủ trương trên, CSVN đã tiêu diệt các đảng phái quốc gia, sát hại các tín đồ và lãnh tụ các tôn giáo, CSVN là thủ phạm gây ra cuộc Nội Chiến tại VN làm thiệt mạng hàng chục triệu người dân Việt . Cũng cần nhần mạnh ở quan điểm cuả sử gia Phạm Văn Sơn khi kết tội CSVN là thủ phạm gây Nội Chiến tại VN là tội ác lớn nhất đối với Dân Tộc, bởi vì theo ông kẻ tạo ra Nội Chiến thì tội nặng hơn cả vì những tác hại to lớn và lâu dài trong đất nước. Kẻ thù ngoại xâm dể đánh đuổi hơn là kẻ tạo chia rẽ,tạo nội chiến .Tạo chia rẽ khiến cho tiêm lực quốc gia bi suy yếu khi cần chống ngoại xâm, tạo Nội Chiến khiến cho đất nước bị thiệt hại nặng nề về nhân lực và tài sản và những hậu quả hận thù dai dẳng trong Dân Tộc. CSVN đưa ra khẩu hiệu Đoàn Kết nhưng trong thực tế họ là kẻ gây chia rẽ bằng những hành động sát hại dã man đồng bào khác chính kiến với họ. Những hành động tàn sát nầy của CSVN không phải là ngẩu nhiên phát sinh mà do chủ trương, kế hoạch, cương lĩnh cuả CS Quốc Tế đề ra. Ngày 30 tháng tư năm 1975 cũng như bao chiến sĩ QLVNCH, đại tá Phạm Văn Sơn đã ở lại chiến đấu đến cùng thay vì leo lên trực thăng đi ra ngoại quốc như 1 số tướng lãnh khác. Ông đã bị bắt và đưa đi tù khổ sai và chết bởi sự trả thù hèn mạt của bọn Cộng nô. 10- Sử gia Hoàng Cơ Thụy: Hoàng Cơ Thụy (1912- mất chưa rõ năm) Sinh ngày 24-9-1912 t ại làng Vẽ(Đông Ngạc) tỉnh Hà Đông trong một gia đình lâu đời xuất thân khoa bảng. -Cử nhân luật khoa đại học Hà Nội (1935) -Luật sư cạnh các toà Thượng Thẩm (1938-1969) -Tham gia toàn dân kháng chiến dành Độc Lập (Chánh án toà Sơ Thẩm Bến Tre) -Đại sứ VNCH tại Lào (1969-1975) -Ba lần tù :Tù Việt Minh (1945),tù thưc dân Pháp (1946) và tù VNCH (1964). -Tác phẩm : Việt Sử Khảo Luận NXB Nam Á 2002,một bộ sử đồ sộ gồm 6 quyển với 3928 trang khổ lớn .Soạn liên tục 17 năm từ 1984 đến 2001 trong thời điểm tác giả gần 80 tuổi đời! Giải thưởng Văn Học 2004 Hội Đồng Tuyển Lựa : Nhà văn Võ Phiến, Nhà văn Nguyễn Hưng Quốc, Bác sĩ Trần Văn Tích, Nhà văn Phan Lạc Phúc, Nhà văn Doãn Quốc Sỹ, Giáo sư Trần Gia Phụng Tác phẩm trúng giải Bộ môn biên khảo. Giải danh dự đặc biệt: truy tặng ông Hoàng Cơ Thụy, tác giả bộ Việt sử khảo luận -Long Điền tóm lược các nhận định của sử gia Hoàng Cơ Thụy như sau: Sử gia Hoàng Cơ Thụy có nhận định về những ngày đầu cuộc chiến 1945-1954 như sau: (Trang 1978 quyển 4 VSKL) “Cuốn phim tổng quát:Vụ nổ bất ngờ hai trái bom nguyên tử Mỹ trên bầu trời Nhật Bản vào các ngày 6 và 9 tháng 8 năm 1945, tiếp theo cấp tốc bởi lời tuyên cáo truyền thanh ngày 15tháng 8 của Nhật Hoàng Hiro Hito xin đầu hàng đồng mịnhvô điều kiện và ra ra lệnh cho mọi đạo quân Nhật trên mọi chiến trường phải buông súng, đúng là “Ba cục đá”(trois pavés) liệng vào “cái đầm ếch Đông Dương”( la mare d’Indochine aix grenouilles) . Mọi người ở mọi nơi náo động , cả trong và ngoài bán đảo chữ S….. Vậy đến khi xảy ra ba biến cố bất ngờ vừa nhắc trên, thì đúng lý quân đội Nhật ở Đông Dương phải buông súng, ngồi đợi quân đội Tàu Tưởng và quân đội Anh dến giải giới và giữ gìn an ninh trật tự. Ba dân tộc Việt , Miên, Lào với 3 vị quốc vương la Bảo Đại, Sihanouk và SosavangVong cứ việc yên ổn làm ăn, toạ hưởng kỳ thànhvà hoan hô Đống Minh đến giải phóng. Thật là tốt đẹp. Những kẻ “phá đám”Cộng Sản Việt(có Mỹ giúp) và thực dân Pháp( không còn bị Mỹ phản đối). Về mặt chính trị: Trên đây đã kể những chuẩn bị của Việt Minh một bên, của Pháp Đe Gaulle phe bên kia để cướp đoạt Việt Nam, rồi Miên, Lào trong tay quân đội Nhật. Đặc biệt nữa là hai phe ấy có liên lạc cùng nhau để chuẩn bị cùng đánh Nhật, mà chính Việt Minh đã đi bước trước, ngay từ tháng 5/1944(trang 1938-1941). Thực sự thì cả hai phe muốn chiếm độc quyền thống trị Đông Dương: De Gaule đã tuyên bố công khai rằng ông phải tái lập chủ quyền Pháp tại năm nước:Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, Ai Lao và Cao Miên. Còn Hồ Chí Minh thì giấu kín cái mộng “ làm bá chủ Đông Dương” để sẽ có thể Cộng Sản Hoá toàn thể bán đảo, rồi sau sẽ cùng với Stalin nhuộm đỏ toàn cầu”…… Hồi giữa năm 1945, Hồ Chí Minh –cũng như mọi người- tưởng rằng Nhật sẽ còn chống cự khá lâu, bởi vì họ còn rất nhiều quân lực uy mãnh ở Đông Dương; vậy Hồ phải đi đôi với Đồng Minh(Tàu, Mỹ và luôn cả Pháp De Gaulle) thì may ra mới có cơ hạ được Nhật. Nên HỒ phải đội lốt Quốc Gia để lừa mọi người, nhất là Mỹ. Đó là Hồ áp dụng một chiến lược của Cộng Sản Đệ Tam rằngphải nghiên cứu kỹ xem ai là kẻ thù chính và xem ai là kẻ thù phụ. Hồi 1945, quân đội Nhật ở Đông Dương là kẻ thù chính, còn Pháp của De Gaulle ở tận trời Âu là kẻ thù phụ, vậy Việt Minh nên liên kết Giai Đoạn” với phe De Gaulle( luôn cả phe Tàu Tưởng và Hoa Kỳ ) để đánh đổ Nhật, xong rồi sẽ thanh toán các” bạn giai đoạn” sau( trang 1935). Có biết rõ cái chiến lược gian hùng ấy của Hồ Chí Minh thì ta mới có thể hiển được những biến cố chính trị và quân sự hồi 1945-1946.Bằng không ta sẽ rơi vào hoả mù các cuộc chiến quân sự và chính trị liên miên, hàng nghìn trận chiến Pháp Việt, hàng trăm vụ phản phúc của Hồ Chí Minh.”…. Nói tóm lại, Hồ Chí Minh (có Mỹ-OSS giúp)và De Gaulle (khônhg còn bị Mỹ - Truman chống đối) là những kẻ” phá đám “ (Trouble fête) làm xáo trộn tình hình Việt Miên Lào trong 30 năm chiến tranh(1945-1975) và đến nay(1992) là thêm 17 năm hậu chiến của cả ba Dân Tộc trong ngục tù cộng sản.( trang 1980) a-Hồ Chí Minh và đồng bọn là giặc, là thổ phỉ : “Thiết nghĩ nên giải thích tại sao chúng tôi dùng danh từ “Giặc Việt Cộng”làm nhan đề cho phần VIII bộVSKL nầy .Phải chăng chúng tôi đã lãng quên tư cách một sử gia khách quan ,xông vào vòng bút chiến ,nên mới gọi ông Hồ Chí Minh và đồng bọn là Giặc? Xin thưa rằng không phải . Ngay từ khi bắt đầu soạn bộ Việt Sử nầy năm 1984,chúng tôi đã suy nghĩ và tìm tòi những lý do thầm kín của Việt Minh khi họ chỉ huy cuộc chiến tranh 30 năm máu lửa 1945-1975,tàn sát mấy triệu sinh linh ,nào Việt ,nào Pháp,nào Mỹ ,nào Úc,nào Đại Hàn v.v..Kết luận thấy rằng: 1-Hồi quân đội Pháp của De Gaulle theo chân quân Anh vào Sài gòn với dã tâm tái chiếm Đông Dương ,thì quả thật toàn dân Việt Nam đều tỏ lòng uất hận,ai cũng hăng hái kháng chiến cứu nước.Việt Minh vừa nắm đưọc chính quyền ,lại có sẳn một tổ chức dầy đặctừ Nam chí Băc, để giử vửng quyền Tự Do Độc Lập (lời HCM ngày 2-9-1945)thì đó là một việc rất đáng làm và nên ca ngợi. Song le ,ngay trong khi kháng Pháp,tức Phản Đế,Hồ Chí Minh đã khởi xướng từ năm 1950 chuyện Phản Phong ở những vùng Việt Minh kiểm soát….Chính Hồ Chí Minh và Tổng Bộ Việt Minh,dưới danh hiệu mới là Đảng Lao Động đã chỉ huy cuộc đấu chính trị ấy,tàn sát hơn nửa triệu đồng bào mà họ gọi là giai cấp địa chủ.Hiển nhiênlà không phải để giành Độc Lập. 2-Sau hội nghị Genève ngày 20.7.1954 chia đội đất nước,thì đầu năm 1956 quân đội Pháp phải rút lui ra khỏi hẳn Miền Nam(theo các diều khoản đã thoả thuận cua HĐ).Nhưng Hồ Chí Minh vẫn còn kiếm đủ mọi cách chiếm nốt miền Nam như chôn giấu võ khí , đặt công sản nằm vùng,khủng bố dân quê, ám sát hào mục,rồi đến cuối năm 1960 ,hộ tạo dựng cái goi là “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam”do chính họ cầm đầu ,giả danh là dân Việt Miền Nam tự động đứng lên chống một chính quyền Việt độc tài tham nhũng…Hiển nhiên (việc làm đó)không phải là để dành Độc Lập! 3-Đứng trước nguy cơ bành trướng của ý thứ hệ CS do Việt Minh có cả khối lượng khổng lồ Trung Cộng,Nga Xô, Đông Âuvà Cuba viện trợ ồ ạt,thì các chính phủ Mỹ kế tiếp nhau, đạc biệt là từ năm 1961, đã phải đưa vũ khí rồi quân đội sang giúp bão vệ Miền Nam,với tính cách triệt để phòng vệ chứ không phải là tấn công miền Bắc.Cuộc chiến luôn bị hạn chế vào dưới vĩ tuyến 17,thành ra miền Bắc-ngoại trừ những phi vụ oanh tạc không htể có mục tiêu chiếm đất-đã luôn luôn đưọc thái bìnhyên ổn,làm thành một thánh địa bất khả xâm phạm để nuôi dưởng quân đội của họ xuống xâm lăng miền Nam .Song Việt Minh đã tạo ra những khẩu hiệu “Chống Mỷ Cưú nước”và “chống Mỹ Diệm cứu nước”chỉ cốt để lừa bịp toàn dân Việt Nam và dư luận quốc tế. 4-Vậy chỉ có một lý do khổng thể chối cải là Hồ Chí Minh đã muốn “thống nhất “đất nước dưới quyền độc tôn của Cộng Sản Đệ Tam để có thể xây dựng XHCN và “thiên đường CS trên toàn cỏi VN…. 5-Cái dã tâm chiếm độc quyền thống trị trên toàn quốc để xây dựng XHCN đã được bộc lộ công khai và rỏ rệt nhất sau ngày 30.4.1975mà CS Bắc Việt đã thôn tính xong miền Nam.Họ gạt bỏ Mặt Trận Giải Phóng coi như là múi chanh đã vắt hết nước.Họ công nhiên đặt cho đất nước cái tên “Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nfghiã Việt Nam”: đảng CS trước kia giả danh là đảng Lao Động nay tự công khai tự xưng là đảng Cộng Sản VN(trang 1935)Thiết thực và đau đớn hơn nửa ,cái thiên đường CS đã biến thành điạ ngục cộng sản cho toàn dân,từ Nam chí Bắc ,cho dến ngày nay(1992) chưa chấm dứt. 6-Trong 2,3 năm vừa qua (1989-1991) ý thức hệ CS đã bị khắp hoàn cầu phỉ nhổ,từ Muà Xuân Thiên An Môn (tháng 6/1989) qua những cuộc biểu tình vĩ đại ở Đông Âu ,khiến mọi chế độ Đệ Tam dều sụp đổ,các “thần tượng” Đệ Tam bị hạ bệ,Liên Bang Nga Xô(USSR) tưởng vững như bàn thạch biến tiêu trên mặt địa cầu!Chính Nghiã Dân Chủ Tự Do -của bộ Việt Sử Khảo Luận này-toàn thắng,ngoại trừ ở 4 quốc gia là Cuba,Trung Cộng,Bắc hàn và Việt Nam.Nói cách khác,nhân loại khắp nơi đều đả coi cộng sản là giặc.” (VSKL quyển 4 trang 2011) b- Đảng CSVN không chính thống: “Cho nên chúng tôi phải lên án mọi chính phủ cộng sản Việt Nam từ 1946 đến nay (1998)là vô giá trị đối với Dân Tộc Việt Nam ,tức là không có chính thống.(trang 3759) và ông có đôi lời nhắn nhủ cùng hậu thế, cho thế hệ trẻ tươnglai của Dân Tộc:“Ngày nay ở quốc nội vẫn là đảng Cộng Sản Việt Nam nắm độc quyền ngự trị,mặc dầu họ có chịu thay nền kinh tế tập thể bằng kinh tế thị trường. Độc tài vẫn còn, tham nhũng hối lộ càng tăng tiến.” “Ở Hải Ngoại, các nhóm đảng nổi lên như nấm, nhưng có đảng nào nghĩ đến việc Hưng Quốc ra sao,sau khi đã Phục Quốc? Có ai, hay nhóm nào đã đưa ra một dự thảo chương trình Hưng Quốc theo đúng lập trường Tự Do Dân Chủvà kêu gọi mọi người, sau khi cùng nhau thảo luận, sửa đổi và biểu quyết “HẢY ĐOÀN KẾT CHUNG QUANH CÁI CHƯƠNG TRÌNH HƯNG QUỐC ấy ,chứ không phải chung quanh một lãnh tụ?Bằng không ,thì đến khi ưa may được cầm quyền ,người ta sẽ lại đi ngay vào con đường độc tài tham nhũng như xưa nay.”(trang 3761) (ngưng trích) Nhận định về sử gia Hoàng Cơ Thụy của nhà văn Trần Văn Tích như sau: http://hoinhavanvietnamluuvong.info/plugins/p2_news/printarticle.php?p2_articleid=205 Cuốn “Giặc Việt cộng” của Luật sư Hoàng Cơ Thụy, một phần của tập 9 trong bộ Việt sử khảo luận* cũng tạo nơi độc giả tâm trạng ấy. Trang 2012 xác định. "Cái dã tâm 'chiếm độc quyền thống trị trên toàn quốc để xây dựng xã hội chủ nghĩa' được bộc lộ công khai và rõ rệt sau ngày 30.4.75 mà cộng sản Bắc Việt đã thôn tính xong miền Nam. Họ gạt bỏ Mặt Trận Giải Phóng, coi như là múi chanh đã vắt hết nước. Họ công nhiên đặt cho đất nước cái tên "Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam', đảng Cộng sản trước kia giả danh là 'đảng Lao Động' nay công khai tự xưng là 'đảng Cộng sản Việt Nam'. Thiết thực và đau đớn hơn nữa, cái thiên đường cộng sản đã biến thành địa ngục cộng sản cho toàn dân, từ Nam chí Bắc, đến ngày nay (1992) chưa chấm dứt". Trước đó, trong thư gửi một độc giả ngày 24.9.88, Luật sư họ Hoàng cũng nói rất minh bạch: "Phải viết sao cho (...) đúng theo lập trường độc lập quốc gia, tự do dân chủ". Một cuốn sử trình bày theo lập trường vừa kể, đề cập đến giai đoạn 1945-1975, cho đến nay chưa có ai viết. Đó là thế mạnh của sách. Nó độc quyền cung cấp cho người đọc một cái nhìn tổng thể về các biến cố mà bản thân mình từng là chứng nhân hay đang là nạn nhân. Nhưng đồng thời nó cũng nói lên được những điều phải nói, đáng nói. Trang 2022 bộc bạch cái nhìn của người trong cuộc: "(...) Bọn Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp đã không cần đếm xỉa gì đến những con số khổng lồ quân đội và dân chúng bị giết ở trên mọi chiến trường hay hậu phương, hồi chống Pháp cũng như hồi chống Mỹ: dân chết chứ chúng có chết đâu mà chúng sợ? Can đảm như thế là quá dễ, thế mà cả thế giới, luôn Pháp và Hoa kỳ, đều ngợi khen bọn lãnh tụ cộng sản là can đảm, bền gan và anh hùng". Một cái nhìn của người trong cuộc như thế khác hẳn với cung cách xử sự của những người da trắng da đen từng coi Hồ là thần tượng, từng gọi dân tộc Việt Nam là anh hùng. Chúng ta không hề muốn làm anh hùng theo kiểu mô tả của những ngòi bút phương tây hay châu Phi; một cung cách mô tả mà động cơ là mặc cảm tự ti đối với Hoa kỳ (nên đề cao cuộc chiến chống Mỹ cứu nước: trường hợp những người Pháp, người Anh, người Đức chẳng hạn) hoặc mặc cảm sắc tộc, nên a dua theo đám đệ tử cuồng tín Mác-Lê trên dải đất chữ S (trường hợp điển hình: gã da đen từng nắm giữ Tổ chức Văn hoá Liên Hiệp Quốc đã chủ trương tôn vinh Hồ Chí Minh là nhà văn hoá). Trang 2146 vạch trần tham vọng thực sự, mục đích duy nhất của tập đoàn lãnh tụ cộng sản: "gây nên cái họa chiến tranh ba mươi năm, tàn sát hàng mấy triệu thanh niên Việt, Pháp, Mỹ, Đại Hàn hay ồc Đại Lợi. Để làm gì? Để tự lột mặt nạ sau ngày 30.4.75, tuyên bố công khai Xã hội chủ nghĩa, và... thất bại hoàn toàn mười năm sau". Trang 2149 trình bày quan điểm của nhà luật học phán xét lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: "Hồ Chí Minh chỉ kêu gọi toàn dân 'kháng chiến chống Pháp giành độc lập thống nhất', chứ không thêm rằng 'và để cứu đảng Cộng sản Đông Dương, để cho Đảng có thể đấu tố trí phú địa hào, tịch thu ruộng đất tài sản của đồng bào, xây dựng Xã hội Chủ nghĩa và thiên đường cộng sản'. Đó là sự giấu giếm và gian trá hệ trọng nhất, đã lường gạt toàn dân, khiến cho Việt Minh cộng sản không bao giờ có 'chính thống', ngay từ phút ban đầu (fraus omnia corrumpit = gian trá làm hư hết).” Nơi trang 2091, chúng ta chứng kiến sự gian manh vô sỉ của các ngòi bút viết sử cộng sản khi cuốn Lịch sử Việt Nam 1945-1975 của Hà Nội, xuất bản năm 1987, tường thuật tại trang 15 rằng "đồng chí Võ Nguyên Giáp dẫn đầu phái đoàn Việt Nam đi họp hội nghị trù bị tại Đà lạt" trong khi thực ra chính Nguyễn Tường Tam, trong tư cách Bộ trưởng Ngoại giao, mới là trưởng đoàn hội nghị liên hệ. Trang 2095 kể một cách trung ngôn nghịch nhĩ về một nhân vật hiện đang sinh sống và giao thiệp với tác giả: "(...) đến tận năm 1971 mà ông Hoàng Xuân Hãn vẫn còn tưởng rằng cộng sản Võ Nguyên Giáp làm việc cho dân cho nước, chứ không phải cho Đảng (là điều y giấu kín), thì còn trách chi hai chục triệu đồng bào đã u mê - hay quá sợ sệt - mà như con thiêu thân nhảy vào biển lửa ở Vĩnh Yên, Ninh Bình, Đông Triều (thời De Lattre) hay Điện Biên Phủ (thời Navarre)..." Nếu thêm vài chữ nữa: "Bình Trị Thiên, đường mòn Hồ Chí Minh (thời 'chống Mỹ cứu nước')" thì câu văn này trở thành ngọn đình liệu soi đường cho những Bùi Tín, những Dương Thu Hương cũng như những người "phản kháng" khác. Nên ghi nhận rằng sau ngữ đoạn này còn thêm một câu thấm thía: "Nói cách khác, trong khi ở ngoài miệng Giáp nói rằng 'phải đoàn kết' thì trong lòng y tự nhủ rằng 'chỉ đoàn kết giai đoạn thôi'. Tam (Nguyễn Tường Tam) và Hãn (Hoàng Xuân Hãn) có dại thì tin". Chính sự u mê, mông muội lao đầu vào cái gọi là chiến tranh vệ quốc -- trong khi thực ra là vệ đảng -- trước đây rồi mới đây, vào cái gọi là chiến tranh giải phóng miền Nam của không biết bao nhiêu thanh niên thanh nữ và cả những người trung niên, đã khiến lão Hoàng Quốc Việt có dịp xoa đầu đám quần chúng đó mà ban khen một cách hết sức trịch thượng rằng nhân dân ta rất anh hùng”. c-Qua bộ sử vĩ đại và đầy công phu gồm gần 4000 trang sách khổ lớn, soạn thảo kỹ càng, với tuổi tác trên 80 cho thấy ông Hoàng Cơ Thụy là một chiến sĩ quốc gia kiên trì chiến đấu cho tự do, độc lập và luôn chiến đấu trong mọi tình huống, tuổi già không làm trở ngại những hoài bão của ông đối với Quốc Gia và Dân Tộc. Ông có những nhận định rất tinh tế và chân thật trong cuôc chiến VN, ông là một nhân chứng sống có giá trị trong chức vụ Đại Sứ VNCH tại Vương Quốc Lào và là một sử gia không chuyên nghiệp nhưng bộ sử soạn thảo rất công phu và cập nhật đầy đủ tài liệu lịch sử, rất cần cho thế hệ trẻ VN để tìm hiểu chủ thuyết sai lầm của đảng CSVN cần phải tránh và những hoài bão cuả thế hệ trẻ mong muốn đi tìm con đường phục hưng đất nước.
-Long Điền tóm lược các nhận định của sử gia Phạm Văn Sơn về cuộc chiến VN 1945-1975 như sau : -Ông Phạm Văn Sơn cho rằng: Xuất phát từ chủ trương của CSQT, vì tuân hành triệt để chủ trương gây bạo loạn, gây chia rẽ giai cấp cua CSQT, nên CSVN đã không đặt quyền lợi của Dân Tộc lên trên mà chỉ lo quyền lợi,nhu cầu của Cộng sản Quốc Tế . -Do hậu quả của những cuộc đấu tố trong Cải cách Ruộng Đất, trong đấu tranh giai cấp, trong cuộc xâm lược Miền Nam bằng mọi giá đã gây hận thù dai dẳng trong gia đình, làm đảo lộn hệ thống xã hội Việt Nam vốn có từ ngàn xưa. -Vì tuân hành những chủ trương trên, CSVN đã tiêu diệt các đảng phái quốc gia, sát hại các tín đồ và lãnh tụ các tôn giáo, CSVN là thủ phạm gây ra cuộc Nội Chiến tại VN làm thiệt mạng hàng chục triệu người dân Việt . Cũng cần nhần mạnh ở quan điểm cuả sử gia Phạm Văn Sơn khi kết tội CSVN là thủ phạm gây Nội Chiến tại VN là tội ác lớn nhất đối với Dân Tộc, bởi vì theo ông kẻ tạo ra Nội Chiến thì tội nặng hơn cả vì những tác hại to lớn và lâu dài trong đất nước. Kẻ thù ngoại xâm dể đánh đuổi hơn là kẻ tạo chia rẽ,tạo nội chiến .Tạo chia rẽ khiến cho tiêm lực quốc gia bi suy yếu khi cần chống ngoại xâm, tạo Nội Chiến khiến cho đất nước bị thiệt hại nặng nề về nhân lực và tài sản và những hậu quả hận thù dai dẳng trong Dân Tộc. CSVN đưa ra khẩu hiệu Đoàn Kết nhưng trong thực tế họ là kẻ gây chia rẽ bằng những hành động sát hại dã man đồng bào khác chính kiến với họ. Những hành động tàn sát nầy của CSVN không phải là ngẩu nhiên phát sinh mà do chủ trương, kế hoạch, cương lĩnh cuả CS Quốc Tế đề ra. Ngày 30 tháng tư năm 1975 cũng như bao chiến sĩ QLVNCH, đại tá Phạm Văn Sơn đã ở lại chiến đấu đến cùng thay vì leo lên trực thăng đi ra ngoại quốc như 1 số tướng lãnh khác. Ông đã bị bắt và đưa đi tù khổ sai và chết bởi sự trả thù hèn mạt của bọn Cộng nô. 10- Sử gia Hoàng Cơ Thụy: Hoàng Cơ Thụy (1912- mất chưa rõ năm) Sinh ngày 24-9-1912 t ại làng Vẽ(Đông Ngạc) tỉnh Hà Đông trong một gia đình lâu đời xuất thân khoa bảng. -Cử nhân luật khoa đại học Hà Nội (1935) -Luật sư cạnh các toà Thượng Thẩm (1938-1969) -Tham gia toàn dân kháng chiến dành Độc Lập (Chánh án toà Sơ Thẩm Bến Tre) -Đại sứ VNCH tại Lào (1969-1975) -Ba lần tù :Tù Việt Minh (1945),tù thưc dân Pháp (1946) và tù VNCH (1964). -Tác phẩm : Việt Sử Khảo Luận NXB Nam Á 2002,một bộ sử đồ sộ gồm 6 quyển với 3928 trang khổ lớn .Soạn liên tục 17 năm từ 1984 đến 2001 trong thời điểm tác giả gần 80 tuổi đời! Giải thưởng Văn Học 2004 Hội Đồng Tuyển Lựa : Nhà văn Võ Phiến, Nhà văn Nguyễn Hưng Quốc, Bác sĩ Trần Văn Tích, Nhà văn Phan Lạc Phúc, Nhà văn Doãn Quốc Sỹ, Giáo sư Trần Gia Phụng Tác phẩm trúng giải Bộ môn biên khảo. Giải danh dự đặc biệt: truy tặng ông Hoàng Cơ Thụy, tác giả bộ Việt sử khảo luận -Long Điền tóm lược các nhận định của sử gia Hoàng Cơ Thụy như sau: Sử gia Hoàng Cơ Thụy có nhận định về những ngày đầu cuộc chiến 1945-1954 như sau: (Trang 1978 quyển 4 VSKL) “Cuốn phim tổng quát:Vụ nổ bất ngờ hai trái bom nguyên tử Mỹ trên bầu trời Nhật Bản vào các ngày 6 và 9 tháng 8 năm 1945, tiếp theo cấp tốc bởi lời tuyên cáo truyền thanh ngày 15tháng 8 của Nhật Hoàng Hiro Hito xin đầu hàng đồng mịnhvô điều kiện và ra ra lệnh cho mọi đạo quân Nhật trên mọi chiến trường phải buông súng, đúng là “Ba cục đá”(trois pavés) liệng vào “cái đầm ếch Đông Dương”( la mare d’Indochine aix grenouilles) . Mọi người ở mọi nơi náo động , cả trong và ngoài bán đảo chữ S….. Vậy đến khi xảy ra ba biến cố bất ngờ vừa nhắc trên, thì đúng lý quân đội Nhật ở Đông Dương phải buông súng, ngồi đợi quân đội Tàu Tưởng và quân đội Anh dến giải giới và giữ gìn an ninh trật tự. Ba dân tộc Việt , Miên, Lào với 3 vị quốc vương la Bảo Đại, Sihanouk và SosavangVong cứ việc yên ổn làm ăn, toạ hưởng kỳ thànhvà hoan hô Đống Minh đến giải phóng. Thật là tốt đẹp. Những kẻ “phá đám”Cộng Sản Việt(có Mỹ giúp) và thực dân Pháp( không còn bị Mỹ phản đối). Về mặt chính trị: Trên đây đã kể những chuẩn bị của Việt Minh một bên, của Pháp Đe Gaulle phe bên kia để cướp đoạt Việt Nam, rồi Miên, Lào trong tay quân đội Nhật. Đặc biệt nữa là hai phe ấy có liên lạc cùng nhau để chuẩn bị cùng đánh Nhật, mà chính Việt Minh đã đi bước trước, ngay từ tháng 5/1944(trang 1938-1941). Thực sự thì cả hai phe muốn chiếm độc quyền thống trị Đông Dương: De Gaule đã tuyên bố công khai rằng ông phải tái lập chủ quyền Pháp tại năm nước:Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, Ai Lao và Cao Miên. Còn Hồ Chí Minh thì giấu kín cái mộng “ làm bá chủ Đông Dương” để sẽ có thể Cộng Sản Hoá toàn thể bán đảo, rồi sau sẽ cùng với Stalin nhuộm đỏ toàn cầu”…… Hồi giữa năm 1945, Hồ Chí Minh –cũng như mọi người- tưởng rằng Nhật sẽ còn chống cự khá lâu, bởi vì họ còn rất nhiều quân lực uy mãnh ở Đông Dương; vậy Hồ phải đi đôi với Đồng Minh(Tàu, Mỹ và luôn cả Pháp De Gaulle) thì may ra mới có cơ hạ được Nhật. Nên HỒ phải đội lốt Quốc Gia để lừa mọi người, nhất là Mỹ. Đó là Hồ áp dụng một chiến lược của Cộng Sản Đệ Tam rằngphải nghiên cứu kỹ xem ai là kẻ thù chính và xem ai là kẻ thù phụ. Hồi 1945, quân đội Nhật ở Đông Dương là kẻ thù chính, còn Pháp của De Gaulle ở tận trời Âu là kẻ thù phụ, vậy Việt Minh nên liên kết Giai Đoạn” với phe De Gaulle( luôn cả phe Tàu Tưởng và Hoa Kỳ ) để đánh đổ Nhật, xong rồi sẽ thanh toán các” bạn giai đoạn” sau( trang 1935). Có biết rõ cái chiến lược gian hùng ấy của Hồ Chí Minh thì ta mới có thể hiển được những biến cố chính trị và quân sự hồi 1945-1946.Bằng không ta sẽ rơi vào hoả mù các cuộc chiến quân sự và chính trị liên miên, hàng nghìn trận chiến Pháp Việt, hàng trăm vụ phản phúc của Hồ Chí Minh.”…. Nói tóm lại, Hồ Chí Minh (có Mỹ-OSS giúp)và De Gaulle (khônhg còn bị Mỹ - Truman chống đối) là những kẻ” phá đám “ (Trouble fête) làm xáo trộn tình hình Việt Miên Lào trong 30 năm chiến tranh(1945-1975) và đến nay(1992) là thêm 17 năm hậu chiến của cả ba Dân Tộc trong ngục tù cộng sản.( trang 1980) a-Hồ Chí Minh và đồng bọn là giặc, là thổ phỉ : “Thiết nghĩ nên giải thích tại sao chúng tôi dùng danh từ “Giặc Việt Cộng”làm nhan đề cho phần VIII bộVSKL nầy .Phải chăng chúng tôi đã lãng quên tư cách một sử gia khách quan ,xông vào vòng bút chiến ,nên mới gọi ông Hồ Chí Minh và đồng bọn là Giặc? Xin thưa rằng không phải . Ngay từ khi bắt đầu soạn bộ Việt Sử nầy năm 1984,chúng tôi đã suy nghĩ và tìm tòi những lý do thầm kín của Việt Minh khi họ chỉ huy cuộc chiến tranh 30 năm máu lửa 1945-1975,tàn sát mấy triệu sinh linh ,nào Việt ,nào Pháp,nào Mỹ ,nào Úc,nào Đại Hàn v.v..Kết luận thấy rằng: 1-Hồi quân đội Pháp của De Gaulle theo chân quân Anh vào Sài gòn với dã tâm tái chiếm Đông Dương ,thì quả thật toàn dân Việt Nam đều tỏ lòng uất hận,ai cũng hăng hái kháng chiến cứu nước.Việt Minh vừa nắm đưọc chính quyền ,lại có sẳn một tổ chức dầy đặctừ Nam chí Băc, để giử vửng quyền Tự Do Độc Lập (lời HCM ngày 2-9-1945)thì đó là một việc rất đáng làm và nên ca ngợi. Song le ,ngay trong khi kháng Pháp,tức Phản Đế,Hồ Chí Minh đã khởi xướng từ năm 1950 chuyện Phản Phong ở những vùng Việt Minh kiểm soát….Chính Hồ Chí Minh và Tổng Bộ Việt Minh,dưới danh hiệu mới là Đảng Lao Động đã chỉ huy cuộc đấu chính trị ấy,tàn sát hơn nửa triệu đồng bào mà họ gọi là giai cấp địa chủ.Hiển nhiênlà không phải để giành Độc Lập. 2-Sau hội nghị Genève ngày 20.7.1954 chia đội đất nước,thì đầu năm 1956 quân đội Pháp phải rút lui ra khỏi hẳn Miền Nam(theo các diều khoản đã thoả thuận cua HĐ).Nhưng Hồ Chí Minh vẫn còn kiếm đủ mọi cách chiếm nốt miền Nam như chôn giấu võ khí , đặt công sản nằm vùng,khủng bố dân quê, ám sát hào mục,rồi đến cuối năm 1960 ,hộ tạo dựng cái goi là “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam”do chính họ cầm đầu ,giả danh là dân Việt Miền Nam tự động đứng lên chống một chính quyền Việt độc tài tham nhũng…Hiển nhiên (việc làm đó)không phải là để dành Độc Lập! 3-Đứng trước nguy cơ bành trướng của ý thứ hệ CS do Việt Minh có cả khối lượng khổng lồ Trung Cộng,Nga Xô, Đông Âuvà Cuba viện trợ ồ ạt,thì các chính phủ Mỹ kế tiếp nhau, đạc biệt là từ năm 1961, đã phải đưa vũ khí rồi quân đội sang giúp bão vệ Miền Nam,với tính cách triệt để phòng vệ chứ không phải là tấn công miền Bắc.Cuộc chiến luôn bị hạn chế vào dưới vĩ tuyến 17,thành ra miền Bắc-ngoại trừ những phi vụ oanh tạc không htể có mục tiêu chiếm đất-đã luôn luôn đưọc thái bìnhyên ổn,làm thành một thánh địa bất khả xâm phạm để nuôi dưởng quân đội của họ xuống xâm lăng miền Nam .Song Việt Minh đã tạo ra những khẩu hiệu “Chống Mỷ Cưú nước”và “chống Mỹ Diệm cứu nước”chỉ cốt để lừa bịp toàn dân Việt Nam và dư luận quốc tế. 4-Vậy chỉ có một lý do khổng thể chối cải là Hồ Chí Minh đã muốn “thống nhất “đất nước dưới quyền độc tôn của Cộng Sản Đệ Tam để có thể xây dựng XHCN và “thiên đường CS trên toàn cỏi VN…. 5-Cái dã tâm chiếm độc quyền thống trị trên toàn quốc để xây dựng XHCN đã được bộc lộ công khai và rỏ rệt nhất sau ngày 30.4.1975mà CS Bắc Việt đã thôn tính xong miền Nam.Họ gạt bỏ Mặt Trận Giải Phóng coi như là múi chanh đã vắt hết nước.Họ công nhiên đặt cho đất nước cái tên “Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nfghiã Việt Nam”: đảng CS trước kia giả danh là đảng Lao Động nay tự công khai tự xưng là đảng Cộng Sản VN(trang 1935)Thiết thực và đau đớn hơn nửa ,cái thiên đường CS đã biến thành điạ ngục cộng sản cho toàn dân,từ Nam chí Bắc ,cho dến ngày nay(1992) chưa chấm dứt. 6-Trong 2,3 năm vừa qua (1989-1991) ý thức hệ CS đã bị khắp hoàn cầu phỉ nhổ,từ Muà Xuân Thiên An Môn (tháng 6/1989) qua những cuộc biểu tình vĩ đại ở Đông Âu ,khiến mọi chế độ Đệ Tam dều sụp đổ,các “thần tượng” Đệ Tam bị hạ bệ,Liên Bang Nga Xô(USSR) tưởng vững như bàn thạch biến tiêu trên mặt địa cầu!Chính Nghiã Dân Chủ Tự Do -của bộ Việt Sử Khảo Luận này-toàn thắng,ngoại trừ ở 4 quốc gia là Cuba,Trung Cộng,Bắc hàn và Việt Nam.Nói cách khác,nhân loại khắp nơi đều đả coi cộng sản là giặc.” (VSKL quyển 4 trang 2011) b- Đảng CSVN không chính thống: “Cho nên chúng tôi phải lên án mọi chính phủ cộng sản Việt Nam từ 1946 đến nay (1998)là vô giá trị đối với Dân Tộc Việt Nam ,tức là không có chính thống.(trang 3759) và ông có đôi lời nhắn nhủ cùng hậu thế, cho thế hệ trẻ tươnglai của Dân Tộc:“Ngày nay ở quốc nội vẫn là đảng Cộng Sản Việt Nam nắm độc quyền ngự trị,mặc dầu họ có chịu thay nền kinh tế tập thể bằng kinh tế thị trường. Độc tài vẫn còn, tham nhũng hối lộ càng tăng tiến.” “Ở Hải Ngoại, các nhóm đảng nổi lên như nấm, nhưng có đảng nào nghĩ đến việc Hưng Quốc ra sao,sau khi đã Phục Quốc? Có ai, hay nhóm nào đã đưa ra một dự thảo chương trình Hưng Quốc theo đúng lập trường Tự Do Dân Chủvà kêu gọi mọi người, sau khi cùng nhau thảo luận, sửa đổi và biểu quyết “HẢY ĐOÀN KẾT CHUNG QUANH CÁI CHƯƠNG TRÌNH HƯNG QUỐC ấy ,chứ không phải chung quanh một lãnh tụ?Bằng không ,thì đến khi ưa may được cầm quyền ,người ta sẽ lại đi ngay vào con đường độc tài tham nhũng như xưa nay.”(trang 3761) (ngưng trích) Nhận định về sử gia Hoàng Cơ Thụy của nhà văn Trần Văn Tích như sau: http://hoinhavanvietnamluuvong.info/plugins/p2_news/printarticle.php?p2_articleid=205 Cuốn “Giặc Việt cộng” của Luật sư Hoàng Cơ Thụy, một phần của tập 9 trong bộ Việt sử khảo luận* cũng tạo nơi độc giả tâm trạng ấy. Trang 2012 xác định. "Cái dã tâm 'chiếm độc quyền thống trị trên toàn quốc để xây dựng xã hội chủ nghĩa' được bộc lộ công khai và rõ rệt sau ngày 30.4.75 mà cộng sản Bắc Việt đã thôn tính xong miền Nam. Họ gạt bỏ Mặt Trận Giải Phóng, coi như là múi chanh đã vắt hết nước. Họ công nhiên đặt cho đất nước cái tên "Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam', đảng Cộng sản trước kia giả danh là 'đảng Lao Động' nay công khai tự xưng là 'đảng Cộng sản Việt Nam'. Thiết thực và đau đớn hơn nữa, cái thiên đường cộng sản đã biến thành địa ngục cộng sản cho toàn dân, từ Nam chí Bắc, đến ngày nay (1992) chưa chấm dứt". Trước đó, trong thư gửi một độc giả ngày 24.9.88, Luật sư họ Hoàng cũng nói rất minh bạch: "Phải viết sao cho (...) đúng theo lập trường độc lập quốc gia, tự do dân chủ". Một cuốn sử trình bày theo lập trường vừa kể, đề cập đến giai đoạn 1945-1975, cho đến nay chưa có ai viết. Đó là thế mạnh của sách. Nó độc quyền cung cấp cho người đọc một cái nhìn tổng thể về các biến cố mà bản thân mình từng là chứng nhân hay đang là nạn nhân. Nhưng đồng thời nó cũng nói lên được những điều phải nói, đáng nói. Trang 2022 bộc bạch cái nhìn của người trong cuộc: "(...) Bọn Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp đã không cần đếm xỉa gì đến những con số khổng lồ quân đội và dân chúng bị giết ở trên mọi chiến trường hay hậu phương, hồi chống Pháp cũng như hồi chống Mỹ: dân chết chứ chúng có chết đâu mà chúng sợ? Can đảm như thế là quá dễ, thế mà cả thế giới, luôn Pháp và Hoa kỳ, đều ngợi khen bọn lãnh tụ cộng sản là can đảm, bền gan và anh hùng". Một cái nhìn của người trong cuộc như thế khác hẳn với cung cách xử sự của những người da trắng da đen từng coi Hồ là thần tượng, từng gọi dân tộc Việt Nam là anh hùng. Chúng ta không hề muốn làm anh hùng theo kiểu mô tả của những ngòi bút phương tây hay châu Phi; một cung cách mô tả mà động cơ là mặc cảm tự ti đối với Hoa kỳ (nên đề cao cuộc chiến chống Mỹ cứu nước: trường hợp những người Pháp, người Anh, người Đức chẳng hạn) hoặc mặc cảm sắc tộc, nên a dua theo đám đệ tử cuồng tín Mác-Lê trên dải đất chữ S (trường hợp điển hình: gã da đen từng nắm giữ Tổ chức Văn hoá Liên Hiệp Quốc đã chủ trương tôn vinh Hồ Chí Minh là nhà văn hoá). Trang 2146 vạch trần tham vọng thực sự, mục đích duy nhất của tập đoàn lãnh tụ cộng sản: "gây nên cái họa chiến tranh ba mươi năm, tàn sát hàng mấy triệu thanh niên Việt, Pháp, Mỹ, Đại Hàn hay ồc Đại Lợi. Để làm gì? Để tự lột mặt nạ sau ngày 30.4.75, tuyên bố công khai Xã hội chủ nghĩa, và... thất bại hoàn toàn mười năm sau". Trang 2149 trình bày quan điểm của nhà luật học phán xét lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: "Hồ Chí Minh chỉ kêu gọi toàn dân 'kháng chiến chống Pháp giành độc lập thống nhất', chứ không thêm rằng 'và để cứu đảng Cộng sản Đông Dương, để cho Đảng có thể đấu tố trí phú địa hào, tịch thu ruộng đất tài sản của đồng bào, xây dựng Xã hội Chủ nghĩa và thiên đường cộng sản'. Đó là sự giấu giếm và gian trá hệ trọng nhất, đã lường gạt toàn dân, khiến cho Việt Minh cộng sản không bao giờ có 'chính thống', ngay từ phút ban đầu (fraus omnia corrumpit = gian trá làm hư hết).” Nơi trang 2091, chúng ta chứng kiến sự gian manh vô sỉ của các ngòi bút viết sử cộng sản khi cuốn Lịch sử Việt Nam 1945-1975 của Hà Nội, xuất bản năm 1987, tường thuật tại trang 15 rằng "đồng chí Võ Nguyên Giáp dẫn đầu phái đoàn Việt Nam đi họp hội nghị trù bị tại Đà lạt" trong khi thực ra chính Nguyễn Tường Tam, trong tư cách Bộ trưởng Ngoại giao, mới là trưởng đoàn hội nghị liên hệ. Trang 2095 kể một cách trung ngôn nghịch nhĩ về một nhân vật hiện đang sinh sống và giao thiệp với tác giả: "(...) đến tận năm 1971 mà ông Hoàng Xuân Hãn vẫn còn tưởng rằng cộng sản Võ Nguyên Giáp làm việc cho dân cho nước, chứ không phải cho Đảng (là điều y giấu kín), thì còn trách chi hai chục triệu đồng bào đã u mê - hay quá sợ sệt - mà như con thiêu thân nhảy vào biển lửa ở Vĩnh Yên, Ninh Bình, Đông Triều (thời De Lattre) hay Điện Biên Phủ (thời Navarre)..." Nếu thêm vài chữ nữa: "Bình Trị Thiên, đường mòn Hồ Chí Minh (thời 'chống Mỹ cứu nước')" thì câu văn này trở thành ngọn đình liệu soi đường cho những Bùi Tín, những Dương Thu Hương cũng như những người "phản kháng" khác. Nên ghi nhận rằng sau ngữ đoạn này còn thêm một câu thấm thía: "Nói cách khác, trong khi ở ngoài miệng Giáp nói rằng 'phải đoàn kết' thì trong lòng y tự nhủ rằng 'chỉ đoàn kết giai đoạn thôi'. Tam (Nguyễn Tường Tam) và Hãn (Hoàng Xuân Hãn) có dại thì tin". Chính sự u mê, mông muội lao đầu vào cái gọi là chiến tranh vệ quốc -- trong khi thực ra là vệ đảng -- trước đây rồi mới đây, vào cái gọi là chiến tranh giải phóng miền Nam của không biết bao nhiêu thanh niên thanh nữ và cả những người trung niên, đã khiến lão Hoàng Quốc Việt có dịp xoa đầu đám quần chúng đó mà ban khen một cách hết sức trịch thượng rằng nhân dân ta rất anh hùng”. c-Qua bộ sử vĩ đại và đầy công phu gồm gần 4000 trang sách khổ lớn, soạn thảo kỹ càng, với tuổi tác trên 80 cho thấy ông Hoàng Cơ Thụy là một chiến sĩ quốc gia kiên trì chiến đấu cho tự do, độc lập và luôn chiến đấu trong mọi tình huống, tuổi già không làm trở ngại những hoài bão của ông đối với Quốc Gia và Dân Tộc. Ông có những nhận định rất tinh tế và chân thật trong cuôc chiến VN, ông là một nhân chứng sống có giá trị trong chức vụ Đại Sứ VNCH tại Vương Quốc Lào và là một sử gia không chuyên nghiệp nhưng bộ sử soạn thảo rất công phu và cập nhật đầy đủ tài liệu lịch sử, rất cần cho thế hệ trẻ VN để tìm hiểu chủ thuyết sai lầm của đảng CSVN cần phải tránh và những hoài bão cuả thế hệ trẻ mong muốn đi tìm con đường phục hưng đất nước.
…”Cuốn”Tổng Công Kích-Tổng Khởi Nghiã cua Việt Cộng Mậu Thân 1968”hôm nay được ra mắt với bạn đọc chỉ có mục đích cảnh giác nhửng người còn nhẹ dạ, còn tin vào lương tâm của CS; và củng cố ý chí của quân dân ta chống xâm lăng cuả đế quốc đỏ. Chúng tôi còn muốn sách nầy tố cáo trước dư luận thế giới những hành động cực kỳ dã man của bọn người luôn bô bô ngoài cửa miệng là những chiến sĩ tiền phong của xã hội chủ nghiã nhưng thực ra chúng chỉ là những kẻ lưu manh và hèn nhát ” -Qua hồi ký của Hồ văn Quang người cùng tù với đại tá Phạm Văn Sơn chúng ta thấy được sự can đảm tột cùng,một tinh thần sắt son vì chính nghiã mà gông cùm và cái chết cũng không làm lung lạc được ông: Mấy tháng trôi qua, 1 hôm cán bộ CS phát hiện trong bài viết về lịch sử, khi so sánh 2 chế độ “tù” thời VNCH và thời XHCN, họ cho đó là 1 việc làm “đại phản động hay cực kỳ phản động”. Do đó, Ban Giám thị trại Tân Lập “đặc biệt chiếu cố” cho anh Sơn vào ngay hầm biệt giam tại K1. ....Anh Sơn tuyệt thực trong nhà kỷ luật và chịu chết; 1 việc làm can đảm đâu khác gì anh hùng Nguyễn Tri Phương xưa : Thà nhịn đói chịu đau mà chết chứ không bao giờ khuất phục giặc Pháp. Với 1 lá thư gởi cho Đảng và Nhà nước XHCN nhờ trại Tân Lập chuyển, nội dung hoàn toàn được bọn CS giữ bí mật.

Monday, August 19, 2024

Henry Kissinger

. All this is especially convenient for Kissinger, who controls the official agen- cies of the Intelligence Community as well as the State Department. Kissinger's secret practices have included wiretapping his closest aides to insure their personal !cyatty. and overthrowing "irresponsible" governments, even if they happen to be cemocratically elected. Kissinger resents having to answer for his actions to anyone, except-possibly--the president. This, then. raises the fundamental question of r oral-and probably legal-responsibility on the part of presidents of the United States and their National Security Advisers (this is the post that Kissinger holds along with that In McCarthy's case, the CIA was especial- W. Secretary of State) forthe resultant deaths ly interested in the private sources that fed of men in foreign lands. him the information to c n t i witch- Typic~Igplniwgd oir. E l e,2~}tli/616/08 :CIA T7eO9JeV QPd t ~ -Mke the these actions, although t:izc:i ,ger needs ii for the S25 billion a year it gives his intelli- Bence network- But even this huge amount cf money (about'S percon; ,f our overall. national budget) is a. ull;- hidden under innocent-sounding line itcrr.t. fn the federal budget. It is another of Henry Kissinger'; many secrets. The $25 biilicn figure may s=ound excessively high-most published estimates have set it at around $10 billion -but in calculating the real total one must take into account the huge sums spent 4c.-ouch military appropriations for the In- telligence Community's ever-growing technological requirements. Billions are s:e^ton satellite reconnaissance. (A recent examp;e of the Intelligence Community's expenditures is the nearly $600 million spent. with Kissinger's specific approval, on but:ding and operating a deep-sea salvage ship designed to recover secretly a Soviet submarine that sank in the Pacific in 1968.) After the publication of disclosures last December that the CIA had been heavily involved in domestic spying activities, Presi- tent Ford named a "blue-ribbon" panel i:eaded by Vice President Nelson Rockefel- er (until recently a presidential adviser on eign intelligence) to investigate. just what the agency had been doing at home. Under a broader mandate, covering overseas intel- ;iyerce operations as well, special Senate and House committees undertook parallel- .- -depth investigations of theirown. Senator F.-=_'^k Church of Idaho, chairman of the Sen- a:& s Select Committee on intellic nce AC- summed it all up in these words: "My o is-riding concern is the.growth of Big government in this country, and the c-c.-ct threat that this represents to the -eecom of the people." And later, when 1tii:,c circulated of possible CIA involve- Tyr--_ assassination plots. Church added, "in absence of war, no agency of the a- rent can have a license to murder: _'esldent can't be a 'Godfather. " ' -ere have been many disclosures in re- .,_ . '-oaths about spying by the CIA and FBI on American citizens suspected- grotesque reasons-of ties c' 'r:c;vements with Soviet, Cuban, North K:-_=_r:. and many other intelligence ser- vices. There have been endless well.-docu- mented stories of wiretaps. illegal break- ins, and the tens of thousands of political files kept, Gestapo-like, on American citi- zens by the CIA, the FBI, and the Army Coun- terintelligence Corps. The CIA has admitted keeping dossiers on New York's Democratic Congresswoman Bella Abzug and three other members of Congress. It refused to name these other congressmen, but Penthouse has learned that they are Wisconsin's Senator Joseph McCarthy and Oklahoma's Robert Kerr- both now deceased-and Senator Hubert H. Humphrey of Minnesota. According to authoritative sources, in the early 1950s the CIA engineered the burglarizing of McCarthy's and Kerr's offices to gain ac- cess to their files. The files were photo-. graphed or, the spot and, presumably, are Approved For Release 2001/08/08 : CIA-RDP77-00432R000100360001-7 dea of Joe McCarthy knowing something at the CIA's chiefs didn't know. Senator Kerr was in his time one of the ost powerful and influential politicians in he U.S. The CIA was hungry for secret po- itical knowledge. Furtheimore. Kerr; a mil- ienaire, was highly active in worldwide oil .perations, particularly in the Middle East if intelligence was as crucial to the CIA enty, years ago as it is today. The CIA reportedly began its dossier on enator Humphrey just before he became ce president in 1965. Penthouse sources ~vere unable to say either why the CIA kept a ile on Humphrey or what it contained, ex- ept that the agency evidently wanted to ve as much confidential material as pos- ible-on the man who held our second-high st elective office. The disclosure that the CIA, which is le- ally only supposed to operate overseas, as been spying on Americans and their lected representatives is obviously dis-- uieting. However, the public testimony of IA Director William E. Colby before Con- ress raises more questions than it answers; nd it serves to cast doubt on all his denials f illegal CIA activity. - Let's look at the record: On January 15. 975, Colby denied'that the CIA engaged in embers of Congress. On February 20 he estified that "over the past eight years, our ounterintelligence program-holdings have ress." On March 5, Mrs. Abzug made pub- c conte.its of her CIA file, which went back the 1950s-thus contradicting Colby's laim that such surveillance went back only ight years. Moreover, on March 5, Colby stified that Mrs. Abzug was one of four group :vas infiltrated by government agents; embers of Congress on whom files were it is aiso possible that the CIA's own opera- ept as part of the agency's operations tion in Portugal was similarly infiltrated. The gainst Vietnam war protesters. He also presumed reason for this CIA activity was aid that one of the other congressmen was Kissir,ger's fear that the U.S. might lose its o longer alive. air-naval bases in the Azores if left-leaning Innumerable questions are raised by this Portuguesemilitary rulers remained in pow- stimony. Three of the more obvious are: Sr. (The Azores, of course. are considered ow many members of Congress have been - vital for refueling U.S. aircraft flying to Israel pied upon by the CIA since it was estab- shad in 1947? Colby testified that tiles ere kept on four members of Congress overthe past eightyears." But atleastthree I the congressmen we know of (McCarthy, err, and Abzug) have or had files, going ack to' the 1950s. Secondly. are the four eople we know of Vietnam war protesters? nd thirdly, Colby said that one of the con- ressmen was dead-but we know of two ho are deceased. The questions can go on nd on. Ron Ziegler clearly has to take a ackseat to Colby as the master of the "in- erved as president of the Malagasy Repub- ic for for only six days, was killed on February 11 by members of the Mobile Police Group, a special police unit; in a crisis that--ever, from the CIA's viewpoint had gotten out of hand. Ratsimandrava had replaced General Gabriel Ramanantsoa as a result of a coup carried out by the special police. However, Ratsimandrava was apparently unaccept- able to the Mobile Police Group, which is known to have CIA ties. American interest in Malagasy lay chiefly in the securing of mili- tary facilities at the former French naval base at Diego-Suarez to fit into the broader scheme of new U.S. bases in the Indian Ocean; most importantly at the entrance to the oil-rich Persian Gulf. This was the sec- ond known U.S.. attempt to obtain base rights from a reluctant Malagasy govern- ment. In January 1972 the American ambas- sador to Malagasy, Anthony D. Marshall, a career CIA officer elevated to ambassador by Nixon in 1969, was asked to leave amidst charges that he vias directing a plot against the government However, the government fell anyway four months later. Marshall. whose CIA cover was never blown publicly. is now ambassador to Trinidad and Tobago, a strategic Caribbean nation. - ? In both 1974 and 1975 the CIA was also deeply engaged in covert operations in Por- tugal, where the world's oldest dictatorship had just been thrown out of po.ver. There are easons to believe that the CIA was in close touch with the military group of General ~ntonio de Spinola. who led an abortive coup against the provisional government on March 11. The actual extent of direct CIA involvement is still unclear, but it is known that the coup failed because the oletters' in the- event of a new Arab-Israeli war.) Al- though there are experts who disagree with Kissinger on the absolute need to retain bases in the Azores, the administration felt so strongly about the Portugal operation that it gave the CIA the go-ahead to establish a worxing relationship with General Spinola. ? Notwithstanding an earlier window- dressing reduction in personnel, the Intelli- gence Community has continued to expand its g!obal operations, with emphasis on technological intelligence both at home and abroad. This accounts for its total yearly perative" statement. . budget of some S25 billion. This money in- Since Watergate, Americans have eludes immensely expensive research and earned of the Nixon plan for a massive do- development of science-fiction intelligence nestic intelligence apparatus-the nearest equipment. The funds are buried in the hing we've ever had in the U.S. to a blue- Pentagon:s budget. For example, the Air he above testimony.by Colby, the Intelfi- for `,c-:d,ide satellite reconnaissance. ence Community has not reformed since ? Despite public disclosures, the Intel- ore of what Penthouse has learned of the ^ e:r Secret tiles on Americans although not a s been proved to be a foreign intelli- 'Community's" more-recent activities: one. c Despite the outcry over its intervention ;ence agent. (Ironically, the CIA announced 1; i h " t as stopped destroying files '~ that C n Chile, the CIA was involved early in 1975 P'' i i f gat ons o the Intelligence n an attempt to overthrow the government of 1 - ?nvest he Malagasy Republic (the Indian Ocean Ccr^.m iity are in progress.) These master make an American police state a real possi bility-should a new Nixon come along, or even i` one doesn't. The Intelligence Corn- r.unity. originally intended as an instrument for gathering foreign intelligence, has gown into such an immense and powerful burea.:cracy that, in effect. it vi rtual ly const*- :.;tes a federal police force-something we have a rays rejected as anathema. And. of course. we still have "national security" ,.vire:azs. ? The National Security Agency, the Pen-- :ago--inked electronic intelligenceorgani- za::c- :'at covers the world with its 125,00 a^r'c c ees and a S11 billion annual budget. S" Sc ec:ively monitors and transcribes :ay uncounted thousands of interna- :ic^a echone calls between the U.S. and. _~-2. ccir.ts. Considering that over sixty overseas calls-both incoming and c.:::_ -2-will have been made this year. - :i;jde of this eavesdropping opera- :rcr .; staggering. It violates. needless to sa; : e :vil rights of Americans using ir. :e--a: ra_I telephone communications for o? business matters (what spy in his r:cni: -.C would use an open phone line to discuss espionage or sabotage?). The NSA falls back on the lame excuse that this prac- tice is part of foreign intelligence protection for the U.S. It goes without saying that all international calls by foreign diplomats are monitored for intelligence-collection pur- poses. Transcripts of all monitored overseas calls-and, in many cases of intercepted radiograms and telegrams-are given to the CIA and the FB1 and, when requested, to Kissinger's National Security Council The NSA has also quietly encouraged il- legal break-ins by agents of other intelli- gence agencies of the foreign embassies in Washington to steal code books. Code- breaking is one of the NSA's chief functions. ? An obscure "private airline" with strong CIA ties, an outfit called Birdair (after its "owner," William H. Bird),-suddenly in Sep- tember 1974 became a major carrier of am- munition and food from Thailand to Cambo- dia aboard huge C-130 Air Force transports provided under a Pentagon contract. Birdair has a close relationship to the worldwide network of CIA-owned "airlines," the most notorious of which is Air America, Inc., op- erating in Indochina. When outraged Americans try to discover exactly what this vast Intelligence Commu-' nity is, what it does (and how and why), and whether it protects their security, rights, and liberties or threatens them, the official an- swer-and the answer usually accepted in the past by both a basically indifferent pub- lic and the blindly trusting and unquestion- ing congressional committees theoretically in charge of CIA "oversight"-is that U.S. Intelligence concerns itself with the collec- tion overseas of information vital to the na- tional security. This, of course, is only an. elegant phrase for espionage-and it is part of a tacit international "gentlemen's agree- ment" that everybody spies on everybody else: the CIA, the Soviet KGB, the British MI-6, the French SDT, the Israeli Ha-Mosad, the Cuban DGS, and so on. But more recently. U.S. Intelligence has admitted conducting-even if usually only when caught red-handed at it-a number of covert political and paramilitary operations el. Richard RatsimandA} ro d P dR 'Ali r i ~ at 2Yi' pa ti~n~21 i4~ ~~ 1a anctimoniously, the CIA ays justify themselves Approved For Release 2001/08/08 : CIA-RDP77-00432R000100360001-7 on the grounds that their destruction of. Vietcong sympathizers in South Vietnam. At foreign governments, or attempts at it, is in the same time, police experts provided by the best interests of the cause of democracy the Agency for International Development in the affected countries. This was the ex- (supposedly the humanitarian supplier of cuse for doing away with leftist regimes in economic development funds) were busy Iran in 1953, in Guatemala in 1954, in the supervising President Nguyen Van Thieu's Congo in 1960, and in Chile in 1973. It was ."tiger-cage prisons for political opponents also the excuse for the abortive Bay of Pigs (the cages themselves were designed and invasion of Cuba in 1961. And, among many built by the U.S. Navy in California under an others, the Congo's Patrice Lumumba, AID contract). In Greece. ba ey-.leaders of_ Chile's Salvador Allende Gossens, and the now ousted "colonels' junta.- a singu- Colonel Ratsimandrava of the Malagasy ;_ry bru'ai d:c_a-^rshio. were actually on -___ Republic were killed in the process of de- = C=y~yilylri Boli,via, Ct- agents" mocracy being subverted by the CIA. The r.?'3rr~vO :3C,' in :lushirR9-0u an i irg the agency had also considered assassinating nap!ess C^e Guevara and his ill-advised Cuba's Premier Fidel Castro and Haiti's rer~ocda cc,: panions. In snort; wher- President Francois Duvalier-and it may ever;:-era is'aa '.natty-dictat6 liip in power, well have had a hand in the 1961 murder of cu can de cef:ain of finding CIA represen- the Dominican Republic's dictator, Rafael :_:Ives in cad with the local executioners Trujillo. The CIA had no ideological prob- and priscr.-rnas,,ars, many of whom were )ems with Duvalier and Trujillo, but they :rained in tre United States by the CIA and .academies were apparently "getting out of control." In ''er4i PC[;-!:' connection with these murder plans, the CIA In the Uni:ed States all the crisscrossing !developed a cozy relationship with the 'ltelligence operations are supposedly Mafia. ccnduucted for the purpose of counterespio- foreign politicians of lesser renown-to say nothing of various American and foreign in- telligence agents and quite innocent peo- pie who just found themselves caught in the midst of some CIA operation-lost either their lives or their freedom in the last quar- er-century as a consequence of our govern- ment's meddling in the affairs of other na- tions. And nobody knows just how many for- eign politicians, military officials, labor and student leaders, and the like were bought, suborned. and corrupted by the CIA as it insouciantly went about weaving networks of secret agents. When earlier this year congressional committees began probing into the activi- ties of the Intelligence Community, Presi- dent Ford expressed private concern that if carried too far the investigations could un- earth political assassinations abroad autho- rized by his predecessors. Subsequently Ford said that he would personally look into : assassination charges, and he added that he "condemned" such operations. The un- written law is that the president of the United States must personally approve the order for the political murder of an important foreign figure by American agents. If an assassina- tion "contract" is given a CIA-employed for- eigner, however, the agency can act on its own. While these would be "selective" as- sassinations, the agency has been indirect- ly responsible for thousands of deaths in such foreign operations as the war waged by its' "Clandestine Army" in Laos, 'the Phoenix program in Vietnam (see below), the 1954 Guatemala Civil War, the Bay of Pigs, the secret air operations in the Congo in the 1960s, and supporting the Indonesian rebellion in 1965. Additionally, the CIA has trained right- wing Cambodian and Ugand-n guerrillas at secret bases in Greece and Tibetan guerril- las in the mountains of Colorado. The question the CIA and other members of the intelligence Community never an- swered was why, in the light of their demo- cratic protestations, they have always allied themselves with the most repressive and reactionary regimes in the world. In Viet- nam, for example, the CIA pioneered the infamous "Operation Phoenix," which was nothing less than a wholesale program fo- .. kilt; F u, a, lu u,a at at the inception of t assassinating over 20.0009k0~VUJaeFWRe99er,2 4./fi8/" :itCk9, WPGT7tQ R oa t was General Cushm Nobody knows exactly how many other rage-in o her words, to intercept foreign spies and -oiittcal operatives. (Oneshou!d.note in passing, however, the )double s ..dard implicit in this whole con- cept we consider it criminal for foreign agents to oceratz covertly in the U.S., and rightly so. b::t the CIA and its confreres think nothing of subverting the governments of oJercountries. Although there is no Ameri- can law against it, such subversion clearly violates international law. It is a form of ag- --a_sion prohibited by the UN Charter which the United States helped to draft.) fn, any e` =_nk. wnat u,e iiitelligence'Co~Ti- muniy has teen doing domestically-and continues to do-far exceeds counteres- pionage re c-s. And this is where the dan- cer of a colice state comes in: In the aid-:960s (no. Nixon wasn't the original ,:nett; al:r:c_gh he raised domestic snoop `.rg to tine !eveii of an art), the Intelligence n'ur.it ^c{ it upon itself to police any form of dissent against the Establishment. 'Everything-from the antiwar movement to civil rights campaigns-was suspect. The late J. Edgar Hoover assembled im- mense files on just about everybody in pub- lic life, from congressmen (fourteen of them) to actors and newspaper scribes. His FBI wiretapped such civil rights leaders as Dr. Martin Luther King. The paranoid notion be- hind it all was that American dissenters simply must be under sinister foreign influ- ences; why else would they object to Ameri- can policy? (But Attorney General Edward Levi also testified in February that the FBI had been repeatedly "misused" by past presidents for political purposes.) More recently, Army counterintelligence agents, who legally have no business spy- ing on civilians, built a computerized data bark, reportedly containing around 100,000 names, at their Fort Holabird, Maryland, headquarters. The Air Force's Office of Spe- cial Investigations (OSI), which theoreti- cally is responsible for the physical security of installations, launched a program to iden- tify and weed out Black Panthers from among the ranks of airmen. Internal OSI documents depicted perilous Blade Panther conspiracies in the Air Force. Then the CIA, whose charter clearly restricts it to intelli- gence operations abroad, entered the do- agents to penetrate peace groups and ra cal movements. Not to be left behind by tt, FBI and the Pentagon, the CIA put toget its own secret lists. which include at le the four congressmen. Because of its e mous manpower, financial, and technolo cal resources, the CIA proceeded secm to train domestic police forces--most n bly in Washington. New York, and Chi go-in complex intelligence crafts so th local cops could better anticipate, monitc and control antiwar demonstrations ether civil disturbances. The Washingt police department has officially admitt 1940s and that they were "intensified" 1969-the year Nixon took office. Inasm as the 1947 law that created the CIA spec this friendly effort was a flagrant violation the statute. Returning the favor, selec police departments began providing C agents with local police credentials to faci fate their undercover work at home. When the CIA's involvement in domes political espionage was publicly disclo late in 1974, the agency, in the midst of gathering scandal, rather incredibly to reasons to suspect that such radical grou _ as the Black Panthers were trained in Aig CIA kept insisting on this, even though presidential commission which includ agency representatives had concluded far back as 1968 that there were no ti between antiwar activists and other mi tants and foreign intelligence services. Another explanation offered the co gressmen was that, because of Hoover's rationality. the FBI dropped its counter pionage functions-and the CIA simply h to fill the vacuum. When. for example, to eign agents were known to be traveling the United States-their movements abro were tracked by the agency's counterint ligence staff--the CIA, according to this a gument. had no choice but to assign its o men to establish surveillance over th upon their arrival here. This may well be tru and quite reasonable in the CIA's eyes, b the agency violates the law for presumab valid reasons, there is simply no tel ling wh the next "one-time exception" is going to b The temptation to keep increasing domest operations is just too great. in fact, these temptations were clang ously increased when Nixon, one of t CIA's best friends from his vice-president days, assumed office in 1969 and realiz the extraordinary possibilities that the gro ing domestic intelligence apparatus offer him politically. Nixon was the chief Whi House executive officer in the planning the Bay of Pigs operation. He was one of t few people outside the Intelligence Co munity to receive what the CIA calls " shit" briefings-that is, the whole unva nished truth about covert operations-d ing his tenure as vice president. and one his first acts as president was to appoint h old friend. Marine Corps General Robert Cushman. Jr., as Deputy Director of Centr Intelligence and Deputy CIA Director. :his appointment. Nixon gained a priva

Kissinger a spy

The Curious Case of Henry Kissinger The secret agent named BOR of the Russian KGB had infiltrated the US government in the highest position, He was formally identified As Henry KISSINGER ! Henry KISSINGER was recruited by the KGB since 1950, under the command of the Russian general Zelanznikoff. Kissinger’s Codename was BOR. He supplied the Soviet government top secret documents concerning all activities, programmes and decisions of the US government. BOR’s treason was disastrous. He, the chief of the National Security Council and the State Secretary of Foreign Affairs, introduced more Soviet spies into key positions in the US government. These spies include Edward Kelly, William 0 Hall, Jesse MacKnight, James Sutterlin, Leonard Unger, Sonnefield, Boris Klosson, and the list goes on. They destroyed every government investigation commission. BOR transmitted the top secret documents to Moscow through communist intermediates: Wilfred Burchett, Vitaly Yuvgenyevich, etc… BOR stopped the publication of an important article of Newsweek, dated 8-25, 1975 concerning activities of the KGB in the United States. ( Henry Kissinger was Secretary of States. ) BOR delivered South Viet-nam to the communists in 1975, camouflaged his traitorous acts by blaming a defeat of America, thus stabbing in the back American and Vietnamese soldiers and peoples. BOR collaborated with his accomplice, Boris Klosson, in the American delegation of the SALT 1 Treaty in Moscow, and to repatriate in Dallas the killer Lee Harvey Oswald, who was instructed by the KGB under two years of intensive training, who later was used as a scapegoat in the assassination of the president John F. Kennedy. To protect Kissinger’s anonymity, the organization of assassins developed a complex plot with the complicity of the directorships of the FBI, the CIA, the Naval Medical Center of Virginia and other professional killers. Henry Kissinger and his accomplices are extremely bloodthirsty and dangerous. The United States has greeted numerous vipers of this nature (sanguinary and poison users) in their country. The criminals can be found in media services (television, news-paper, investigation services…) in analysing laboratories, in the CIA, in the FBI, in poison factories in Washington DC, and many other forms. The target of these poisonings is to kill the nationalists (enemies of traitors inside the CIA), and also to destroy the health (then enterprises, then incomes) of US and Canadian citizens and immigrant communities, so as to hinder them to sponsor their family to get North America. And traitorous officials inside US and Canadian immigration ministries hurry and favour the dossiers of the guilty community and they delay every one of others communities. Amazon.ca: Henry Kissinger: Soviet Agent: Books Charlotte Iserbyt — Kissinger Out Of The Closet eBay: Henry Kissinger: Soviet Agent by Frank A. Capell (item … Find in a Library: Henry Kissinger, Soviet agent | English Book … The Welch Report Kissinger – The Book by Gary Allen Kissinger’s Public Confession as an Agent of British Influence Kissinger: Fox to Guard Chicken Coop (Dec 5, 2002)
“(January 9, 1913 – April 22, 1994) http://vi.wikipedia.org/wiki/Richard_Nixon Bách khoa toàn thư mở Wikipedia Thứ tự Tổng thống thứ 37 của Hoa Kỳ Nhiệm kỳ 20 tháng 1 năm 1969 – 9 tháng 8 năm 1974 Tiền nhiệm Lyndon B. Johnson Kế nhiệm Gerald Ford Ngày sinh: 9 tháng 1 năm 1913 Nơi sinh Yorba Linda, California Ngày mất 22 tháng 4, 1994 (81 tuổi) Nơi mất New York, New York Phu nhân Thelma Catherine Patricia Ryan (Pat) Nixon Đảng Cộng hoà Chữ ký Richard Milhous Nixon (9 tháng 1, 1913 – 22 tháng 4, 1994) là Tổng thống thứ 37 của Hoa Kỳ nhiệm kì phục vụ từ 1969 đến 1974. Ông là Tổng thống duy nhất đã từ chức khỏi nhiệm sở. Vụ Watergate Vụ Watergate là một vụ bê bối chính trị trên chính trường Mỹ, từ năm 1972 đến năm 1974, dẫn đến việc Tổng thống Richard Nixon phải từ chức. Vụ việc xảy ra vào thời điểm Chiến tranh Việt Nam, khi chính quyền Nixon đã lạm dụng quyền lực để ngăn cản phong trào phản chiến và lực lượng chính trị đối lập là Đảng Dân chủ. Có thể tóm tắt vụ việc như sau. Sau khi bắt năm “tên trộm” đột nhập văn phòng của Đảng Dân chủ tại Khách sạn Watergate (Washington D.C.) vào ngày 17 tháng 6 năm 1972, Cục Điều tra Liên bang Hoa Kỳ (FBI) lần ra manh mối của chiến dịch do thám này: chính các nhân vật thân cận của Tổng thống Nixon, cùng với ủy ban vận động bầu cử của ông đã tổ chức vụ đột nhập này nhắm vào đối thủ chính trị là Đảng Dân chủ. Tuy nhiên, các kết quả điều tra của FBI đã bị ỉm đi dưới những âm mưu che đậy của Nhà Trắng cho tới khi hai nhà báo Bob Woodward và Carl Bernstein của tờ Washington Post công bố trên mặt báo. Quốc hội Mỹ bèn lập ủy ban điều tra. Trước nguy cơ bị quốc hội phế truất, ngày 9 tháng 8 năm 1974, Tổng thống Nixon tuyên bố từ chức.

Sunday, August 18, 2024

5-Richard Nixon. (800-814) Richard Milhous Nixon “(January 9, 1913 – April 22, 1994) http://vi.wikipedia.org/wiki/Richard_Nixon Bách khoa toàn thư mở Wikipedia Thứ tự Tổng thống thứ 37 của Hoa Kỳ Nhiệm kỳ 20 tháng 1 năm 1969 – 9 tháng 8 năm 1974 Tiền nhiệm Lyndon B. Johnson Kế nhiệm Gerald Ford Ngày sinh: 9 tháng 1 năm 1913 Nơi sinh Yorba Linda, California Ngày mất 22 tháng 4, 1994 (81 tuổi) Nơi mất New York, New York Phu nhân Thelma Catherine Patricia Ryan (Pat) Nixon Đảng Cộng hoà Chữ ký Richard Milhous Nixon (9 tháng 1, 1913 – 22 tháng 4, 1994) là Tổng thống thứ 37 của Hoa Kỳ nhiệm kì phục vụ từ 1969 đến 1974. Ông là Tổng thống duy nhất đã từ chức khỏi nhiệm sở. Vụ Watergate Vụ Watergate là một vụ bê bối chính trị trên chính trường Mỹ, từ năm 1972 đến năm 1974, dẫn đến việc Tổng thống Richard Nixon phải từ chức. Vụ việc xảy ra vào thời điểm Chiến tranh Việt Nam, khi chính quyền Nixon đã lạm dụng quyền lực để ngăn cản phong trào phản chiến và lực lượng chính trị đối lập là Đảng Dân chủ. Có thể tóm tắt vụ việc như sau. Sau khi bắt năm “tên trộm” đột nhập văn phòng của Đảng Dân chủ tại Khách sạn Watergate (Washington D.C.) vào ngày 17 tháng 6 năm 1972, Cục Điều tra Liên bang Hoa Kỳ (FBI) lần ra manh mối của chiến dịch do thám này: chính các nhân vật thân cận của Tổng thống Nixon, cùng với ủy ban vận động bầu cử của ông đã tổ chức vụ đột nhập này nhắm vào đối thủ chính trị là Đảng Dân chủ. Tuy nhiên, các kết quả điều tra của FBI đã bị ỉm đi dưới những âm mưu che đậy của Nhà Trắng cho tới khi hai nhà báo Bob Woodward và Carl Bernstein của tờ Washington Post công bố trên mặt báo. Quốc hội Mỹ bèn lập ủy ban điều tra. Trước nguy cơ bị quốc hội phế truất, ngày 9 tháng 8 năm 1974, Tổng thống Nixon tuyên bố từ chức. Nixon’s Vietnam War by Jeffrey P. Kimball Hardcover: 528 pages ISBN: 0700611908 Publisher: University Press of Kansas Publish Date: July 15, 2006
5-Richard Nixon. (800-814) Richard Milhous Nixon “(January 9, 1913 – April 22, 1994) http://vi.wikipedia.org/wiki/Richard_Nixon Bách khoa toàn thư mở Wikipedia Thứ tự Tổng thống thứ 37 của Hoa Kỳ Nhiệm kỳ 20 tháng 1 năm 1969 – 9 tháng 8 năm 1974 Tiền nhiệm Lyndon B. Johnson Kế nhiệm Gerald Ford Ngày sinh: 9 tháng 1 năm 1913 Nơi sinh Yorba Linda, California Ngày mất 22 tháng 4, 1994 (81 tuổi) Nơi mất New York, New York Phu nhân Thelma Catherine Patricia Ryan (Pat) Nixon Đảng Cộng hoà Chữ ký Richard Milhous Nixon (9 tháng 1, 1913 – 22 tháng 4, 1994) là Tổng thống thứ 37 của Hoa Kỳ nhiệm kì phục vụ từ 1969 đến 1974. Ông là Tổng thống duy nhất đã từ chức khỏi nhiệm sở. Vụ Watergate Vụ Watergate là một vụ bê bối chính trị trên chính trường Mỹ, từ năm 1972 đến năm 1974, dẫn đến việc Tổng thống Richard Nixon phải từ chức. Vụ việc xảy ra vào thời điểm Chiến tranh Việt Nam, khi chính quyền Nixon đã lạm dụng quyền lực để ngăn cản phong trào phản chiến và lực lượng chính trị đối lập là Đảng Dân chủ. Có thể tóm tắt vụ việc như sau. Sau khi bắt năm “tên trộm” đột nhập văn phòng của Đảng Dân chủ tại Khách sạn Watergate (Washington D.C.) vào ngày 17 tháng 6 năm 1972, Cục Điều tra Liên bang Hoa Kỳ (FBI) lần ra manh mối của chiến dịch do thám này: chính các nhân vật thân cận của Tổng thống Nixon, cùng với ủy ban vận động bầu cử của ông đã tổ chức vụ đột nhập này nhắm vào đối thủ chính trị là Đảng Dân chủ. Tuy nhiên, các kết quả điều tra của FBI đã bị ỉm đi dưới những âm mưu che đậy của Nhà Trắng cho tới khi hai nhà báo Bob Woodward và Carl Bernstein của tờ Washington Post công bố trên mặt báo. Quốc hội Mỹ bèn lập ủy ban điều tra. Trước nguy cơ bị quốc hội phế truất, ngày 9 tháng 8 năm 1974, Tổng thống Nixon tuyên bố từ chức. Nixon’s Vietnam War by Jeffrey P. Kimball Hardcover: 528 pages ISBN: 0700611908 Publisher: University Press of Kansas Publish Date: July 15, 2006
5-Richard Nixon. (800-814) Richard Milhous Nixon “(January 9, 1913 – April 22, 1994) http://vi.wikipedia.org/wiki/Richard_Nixon Bách khoa toàn thư mở Wikipedia Thứ tự Tổng thống thứ 37 của Hoa Kỳ Nhiệm kỳ 20 tháng 1 năm 1969 – 9 tháng 8 năm 1974 Tiền nhiệm Lyndon B. Johnson Kế nhiệm Gerald Ford Ngày sinh: 9 tháng 1 năm 1913 Nơi sinh Yorba Linda, California Ngày mất 22 tháng 4, 1994 (81 tuổi) Nơi mất New York, New York Phu nhân Thelma Catherine Patricia Ryan (Pat) Nixon Đảng Cộng hoà Chữ ký Richard Milhous Nixon (9 tháng 1, 1913 – 22 tháng 4, 1994) là Tổng thống thứ 37 của Hoa Kỳ nhiệm kì phục vụ từ 1969 đến 1974. Ông là Tổng thống duy nhất đã từ chức khỏi nhiệm sở. Vụ Watergate Vụ Watergate là một vụ bê bối chính trị trên chính trường Mỹ, từ năm 1972 đến năm 1974, dẫn đến việc Tổng thống Richard Nixon phải từ chức. Vụ việc xảy ra vào thời điểm Chiến tranh Việt Nam, khi chính quyền Nixon đã lạm dụng quyền lực để ngăn cản phong trào phản chiến và lực lượng chính trị đối lập là Đảng Dân chủ. Có thể tóm tắt vụ việc như sau. Sau khi bắt năm “tên trộm” đột nhập văn phòng của Đảng Dân chủ tại Khách sạn Watergate (Washington D.C.) vào ngày 17 tháng 6 năm 1972, Cục Điều tra Liên bang Hoa Kỳ (FBI) lần ra manh mối của chiến dịch do thám này: chính các nhân vật thân cận của Tổng thống Nixon, cùng với ủy ban vận động bầu cử của ông đã tổ chức vụ đột nhập này nhắm vào đối thủ chính trị là Đảng Dân chủ. Tuy nhiên, các kết quả điều tra của FBI đã bị ỉm đi dưới những âm mưu che đậy của Nhà Trắng cho tới khi hai nhà báo Bob Woodward và Carl Bernstein của tờ Washington Post công bố trên mặt báo. Quốc hội Mỹ bèn lập ủy ban điều tra. Trước nguy cơ bị quốc hội phế truất, ngày 9 tháng 8 năm 1974, Tổng thống Nixon tuyên bố từ chức. Nixon’s Vietnam War by Jeffrey P. Kimball Hardcover: 528 pages ISBN: 0700611908 Publisher: University Press of Kansas Publish Date: July 15, 2006
3-Quyết định ủng hộ (bật đèn xanh) cho một số tướng lảnh đảo chánh TT Ngô Đình Diệm, một tổng thống hợp hiến do dân cử, là can thiệp vào công chuyện nội bộ của VNCH,là một quyết định sai lầm làm hạ uy tín của Hoa Kỳ trên trường quốc tế. Các đồng minh của Hoa Kỳ không còn tin tưởng vào sự viện trợ vô tư của Hoa Kỳ,mà là viện trợ với ý định lèo lái quốc gia đó.
3-Quyết định ủng hộ (bật đèn xanh) cho một số tướng lảnh đảo chánh TT Ngô Đình Diệm, một tổng thống hợp hiến do dân cử, là can thiệp vào công chuyện nội bộ của VNCH,là một quyết định sai lầm làm hạ uy tín của Hoa Kỳ trên trường quốc tế. Các đồng minh của Hoa Kỳ không còn tin tưởng vào sự viện trợ vô tư của Hoa Kỳ,mà là viện trợ với ý định lèo lái quốc gia đó.
John Fitzgerald Kennedy Thứ tự Tổng thống thứ 35 Nhiệm kỳ 20 tháng 1, 1961 – 22 tháng 11, 1963 Tiền nhiệm Dwight D. Eisenhower Kế nhiệm Lyndon B. Johnson Ngày sinh: 29 tháng 5, 1917 Nơi sinh Brookline, Massachusetts Ngày mất 22 tháng 11, 1963 (46 tuổi) Nơi mất Dallas, Texas Phu nhân Jacqueline Lee Bouvier Kennedy Đảng Dân chủ Chữ ký “John Fitzgerald Kennedy (29 tháng 5 năm 1917 – 22 tháng 11 năm 1963), thường được gọi là Jack Kennedy hay JFK, là tổng thống thứ 35 của Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, tại nhiệm từ năm 1961 đến năm 1963. Sự kiện Kennedy bị ám sát vào ngày 22 tháng 11 năm 1963 là một bước ngoặt trong dòng lịch sử Hoa Kỳ vào thập niên 1960, khi khắp thế giới thương tiếc ông và các nhà lãnh đạo của nhiều quốc gia đã đi theo quan tài đưa tiễn ông về nơi an nghỉ cuối cùng. Là chính khách trẻ tuổi nhất từng đắc cử tổng thống Hoa Kỳ[1] (Theodore Roosevelt, ở tuổi 42, là chính trị gia trẻ tuổi nhất từng phục vụ trong cương vị tổng thống: vì là phó tổng thống đương chức, Roosevelt kế nhiệm tổng thống William McKinley bị ám sát vào tháng 9 năm 1901), Kennedy cũng là tổng thống trẻ tuổi nhất đã qua đời – ông sống được 46 năm và 177 ngày. Kennedy là tín hữu Công giáo Rôma, là người Mỹ gốc Ireland duy nhất trở thành ông chủ toà Nhà Trắng và là Tổng thống đạt giải Pulitzer duy nhất của Hoa Kỳ.[2] Ông cũng là ứng cử viên cuối cùng thuộc đảng Dân chủ đến từ một tiểu bang miền Bắc giành được thắng lợi trong một cuộc tuyển cử tổng thống, là tổng thống đầu tiên sinh ra trong thế kỷ 20, và cho đến nay ông là tổng thống sau cùng qua đời khi đương chức. Các sự kiện chính trong nhiệm kỳ tổng thống của Kennedy gồm có: vụ khủng hoảng hỏa tiễn Cuba, xây dựng Bức tường Berlin, cuộc chạy đua thám hiểm không gian, giai đoạn đầu của Chiến tranh Việt Nam và Phong trào Dân quyền. Ngày nay, ông được xếp hạng cao trong các cuộc thăm dò về uy tín của các tổng thống, nhưng Kennedy qua đời khi các dự định chính trị của ông đang còn dang dở.[3] Người kế nhiệm ông, Lyndon B. Johnson, đã hoàn tất tốt các chính sách về dân quyền khởi xướng bởi Kennedy.” Có thể nói TT Kennedy là vị tổng thống can dự nhiều nhất vào chính quyền Việt Nam Cộng Hoà qua các sự kiện đáng ghi nhớ như sau: -Trong thời gian cầm quyền,tt Kennedy đã gia tăng số cố vấn quân sự rất nhanh (không có nhiệm vụ tác chiến)lên rất nhanh tại Nam Việt Nam từ con số 400 lên đến 17.000 người.[xi] nh ưng viện trợ kinh tế lại giảm, chỉ bằng phân nửa của những năm 1955 .[xii] – Sau đó TT Kennedy lại có ý định rút lui trong cuộc chiến Việt Nam vì lý do không thấy được chiến thắng mong đợi.[xiii] Thực tế TT Kennedy áp dụng thuyết Domino (Domino theory) can dự vào Việt Nam vì lo sợ sự bành trướng chủ nghiã CS sau Đệ Nhị Thế Chiến và chủ thuyết Be Bờ (Containment Doctrine ) thiên về phòng thủ và ngăn chận sự bành trướng của CSQT,chỉ chấp nhận cuộc chiến tranh hạn chế ,chủ thuyết nầy bị phê phán là đánh giặc mà “Không cần thắng!” “No win policy”. Do đó Hoa kỳ chỉ mong mỏi đạt được sự ngăn chận làn sóng đỏ từ Trung Cộng không lan ra thêm các nước vùng Đông Nam Á,ngoài ra Hoa Kỳ không mong muốn một chiến thắng nào trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương.
4-John Fitzgerald Kennedy: 792 John F. Kennedy .Bách khoa toàn thư mở Wikipedia http://vi.wikipedia.org/wiki/John_F._Kennedy  John Fitzgerald Kennedy Thứ tự Tổng thống thứ 35 Nhiệm kỳ 20 tháng 1, 1961 – 22 tháng 11, 1963 Tiền nhiệm Dwight D. Eisenhower Kế nhiệm Lyndon B. Johnson Ngày sinh: 29 tháng 5, 1917 Nơi sinh Brookline, Massachusetts Ngày mất 22 tháng 11, 1963 (46 tuổi) Nơi mất Dallas, Texas Phu nhân Jacqueline Lee Bouvier Kennedy Đảng Dân chủ Chữ ký “John Fitzgerald Kennedy (29 tháng 5 năm 1917 – 22 tháng 11 năm 1963), thường được gọi là Jack Kennedy hay JFK, là tổng thống thứ 35 của Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, tại nhiệm từ năm 1961 đến năm 1963. Sự kiện Kennedy bị ám sát vào ngày 22 tháng 11 năm 1963 là một bước ngoặt trong dòng lịch sử Hoa Kỳ vào thập niên 1960, khi khắp thế giới thương tiếc ông và các nhà lãnh đạo của nhiều quốc gia đã đi theo quan tài đưa tiễn ông về nơi an nghỉ cuối cùng. Là chính khách trẻ tuổi nhất từng đắc cử tổng thống Hoa Kỳ[1] (Theodore Roosevelt, ở tuổi 42, là chính trị gia trẻ tuổi nhất từng phục vụ trong cương vị tổng thống: vì là phó tổng thống đương chức, Roosevelt kế nhiệm tổng thống William McKinley bị ám sát vào tháng 9 năm 1901), Kennedy cũng là tổng thống trẻ tuổi nhất đã qua đời – ông sống được 46 năm và 177 ngày. Kennedy là tín hữu Công giáo Rôma, là người Mỹ gốc Ireland duy nhất trở thành ông chủ toà Nhà Trắng và là Tổng thống đạt giải Pulitzer duy nhất của Hoa Kỳ.[2] Ông cũng là ứng cử viên cuối cùng thuộc đảng Dân chủ đến từ một tiểu bang miền Bắc giành được thắng lợi trong một cuộc tuyển cử tổng thống, là tổng thống đầu tiên sinh ra trong thế kỷ 20, và cho đến nay ông là tổng thống sau cùng qua đời khi đương chức. Các sự kiện chính trong nhiệm kỳ tổng thống của Kennedy gồm có: vụ khủng hoảng hỏa tiễn Cuba, xây dựng Bức tường Berlin, cuộc chạy đua thám hiểm không gian, giai đoạn đầu của Chiến tranh Việt Nam và Phong trào Dân quyền. Ngày nay, ông được xếp hạng cao trong các cuộc thăm dò về uy tín của các tổng thống, nhưng Kennedy qua đời khi các dự định chính trị của ông đang còn dang dở.[3] Người kế nhiệm ông, Lyndon B. Johnson, đã hoàn tất tốt các chính sách về dân quyền khởi xướng bởi Kennedy.” Có thể nói TT Kennedy là vị tổng thống can dự nhiều nhất vào chính quyền Việt Nam Cộng Hoà qua các sự kiện đáng ghi nhớ như sau: -Trong thời gian cầm quyền,tt Kennedy đã gia tăng số cố vấn quân sự rất nhanh (không có nhiệm vụ tác chiến)lên rất nhanh tại Nam Việt Nam từ con số 400 lên đến 17.000 người.[xi] nh ưng viện trợ kinh tế lại giảm, chỉ bằng phân nửa của những năm 1955 .[xii] – Sau đó TT Kennedy lại có ý định rút lui trong cuộc chiến Việt Nam vì lý do không thấy được chiến thắng mong đợi.[xiii] Thực tế TT Kennedy áp dụng thuyết Domino (Domino theory) can dự vào Việt Nam vì lo sợ sự bành trướng chủ nghiã CS sau Đệ Nhị Thế Chiến và chủ thuyết Be Bờ (Containment Doctrine ) thiên về phòng thủ và ngăn chận sự bành trướng của CSQT,chỉ chấp nhận cuộc chiến tranh hạn chế ,chủ thuyết nầy bị phê phán là đánh giặc mà “Không cần thắng!” “No win policy”. Do đó Hoa kỳ chỉ mong mỏi đạt được sự ngăn chận làn sóng đỏ từ Trung Cộng không lan ra thêm các nước vùng Đông Nam Á,ngoài ra Hoa Kỳ không mong muốn một chiến thắng nào trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương.

Thursday, August 15, 2024

HCT

10- Sử gia Hoàng Cơ Thụy: Hoàng Cơ Thụy (1912- mất chưa rõ năm) Sinh ngày 24-9-1912 t ại làng Vẽ(Đông Ngạc) tỉnh Hà Đông trong một gia đình lâu đời xuất thân khoa bảng. -Cử nhân luật khoa đại học Hà Nội (1935) -Luật sư cạnh các toà Thượng Thẩm (1938-1969) -Tham gia toàn dân kháng chiến dành Độc Lập (Chánh án toà Sơ Thẩm Bến Tre) -Đại sứ VNCH tại Lào (1969-1975) -Ba lần tù :Tù Việt Minh (1945),tù thưc dân Pháp (1946) và tù VNCH (1964). -Tác phẩm : Việt Sử Khảo Luận NXB Nam Á 2002,một bộ sử đồ sộ gồm 6 quyển với 3928 trang khổ lớn .Soạn liên tục 17 năm từ 1984 đến 2001 trong thời điểm tác giả gần 80 tuổi đời! Giải thưởng Văn Học 2004 Hội Đồng Tuyển Lựa : Nhà văn Võ Phiến, Nhà văn Nguyễn Hưng Quốc, Bác sĩ Trần Văn Tích, Nhà văn Phan Lạc Phúc, Nhà văn Doãn Quốc Sỹ, Giáo sư Trần Gia Phụng Tác phẩm trúng giải Bộ môn biên khảo. Giải danh dự đặc biệt: truy tặng ông Hoàng Cơ Thụy, tác giả bộ Việt sử khảo luận -Long Điền tóm lược các nhận định của sử gia Hoàng Cơ Thụy như sau: Sử gia Hoàng Cơ Thụy có nhận định về những ngày đầu cuộc chiến 1945-1954 như sau: (Trang 1978 quyển 4 VSKL) “Cuốn phim tổng quát:Vụ nổ bất ngờ hai trái bom nguyên tử Mỹ trên bầu trời Nhật Bản vào các ngày 6 và 9 tháng 8 năm 1945, tiếp theo cấp tốc bởi lời tuyên cáo truyền thanh ngày 15tháng 8 của Nhật Hoàng Hiro Hito xin đầu hàng đồng mịnhvô điều kiện và ra ra lệnh cho mọi đạo quân Nhật trên mọi chiến trường phải buông súng, đúng là “Ba cục đá”(trois pavés) liệng vào “cái đầm ếch Đông Dương”( la mare d’Indochine aix grenouilles) . Mọi người ở mọi nơi náo động , cả trong và ngoài bán đảo chữ S….. Vậy đến khi xảy ra ba biến cố bất ngờ vừa nhắc trên, thì đúng lý quân đội Nhật ở Đông Dương phải buông súng, ngồi đợi quân đội Tàu Tưởng và quân đội Anh dến giải giới và giữ gìn an ninh trật tự. Ba dân tộc Việt , Miên, Lào với 3 vị quốc vương la Bảo Đại, Sihanouk và SosavangVong cứ việc yên ổn làm ăn, toạ hưởng kỳ thànhvà hoan hô Đống Minh đến giải phóng. Thật là tốt đẹp. Những kẻ “phá đám”Cộng Sản Việt(có Mỹ giúp) và thực dân Pháp( không còn bị Mỹ phản đối). Về mặt chính trị: Trên đây đã kể những chuẩn bị của Việt Minh một bên, của Pháp Đe Gaulle phe bên kia để cướp đoạt Việt Nam, rồi Miên, Lào trong tay quân đội Nhật. Đặc biệt nữa là hai phe ấy có liên lạc cùng nhau để chuẩn bị cùng đánh Nhật, mà chính Việt Minh đã đi bước trước, ngay từ tháng 5/1944(trang 1938-1941). Thực sự thì cả hai phe muốn chiếm độc quyền thống trị Đông Dương: De Gaule đã tuyên bố công khai rằng ông phải tái lập chủ quyền Pháp tại năm nước:Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, Ai Lao và Cao Miên. Còn Hồ Chí Minh thì giấu kín cái mộng “ làm bá chủ Đông Dương” để sẽ có thể Cộng Sản Hoá toàn thể bán đảo, rồi sau sẽ cùng với Stalin nhuộm đỏ toàn cầu”…… Hồi giữa năm 1945, Hồ Chí Minh –cũng như mọi người- tưởng rằng Nhật sẽ còn chống cự khá lâu, bởi vì họ còn rất nhiều quân lực uy mãnh ở Đông Dương; vậy Hồ phải đi đôi với Đồng Minh(Tàu, Mỹ và luôn cả Pháp De Gaulle) thì may ra mới có cơ hạ được Nhật. Nên HỒ phải đội lốt Quốc Gia để lừa mọi người, nhất là Mỹ. Đó là Hồ áp dụng một chiến lược của Cộng Sản Đệ Tam rằngphải nghiên cứu kỹ xem ai là kẻ thù chính và xem ai là kẻ thù phụ. Hồi 1945, quân đội Nhật ở Đông Dương là kẻ thù chính, còn Pháp của De Gaulle ở tận trời Âu là kẻ thù phụ, vậy Việt Minh nên liên kết Giai Đoạn” với phe De Gaulle( luôn cả phe Tàu Tưởng và Hoa Kỳ ) để đánh đổ Nhật, xong rồi sẽ thanh toán các” bạn giai đoạn” sau( trang 1935). Có biết rõ cái chiến lược gian hùng ấy của Hồ Chí Minh thì ta mới có thể hiển được những biến cố chính trị và quân sự hồi 1945-1946.Bằng không ta sẽ rơi vào hoả mù các cuộc chiến quân sự và chính trị liên miên, hàng nghìn trận chiến Pháp Việt, hàng trăm vụ phản phúc của Hồ Chí Minh.”…. Nói tóm lại, Hồ Chí Minh (có Mỹ-OSS giúp)và De Gaulle (khônhg còn bị Mỹ - Truman chống đối) là những kẻ” phá đám “ (Trouble fête) làm xáo trộn tình hình Việt Miên Lào trong 30 năm chiến tranh(1945-1975) và đến nay(1992) là thêm 17 năm hậu chiến của cả ba Dân Tộc trong ngục tù cộng sản.( trang 1980) a-Hồ Chí Minh và đồng bọn là giặc, là thổ phỉ : “Thiết nghĩ nên giải thích tại sao chúng tôi dùng danh từ “Giặc Việt Cộng”làm nhan đề cho phần VIII bộVSKL nầy .Phải chăng chúng tôi đã lãng quên tư cách một sử gia khách quan ,xông vào vòng bút chiến ,nên mới gọi ông Hồ Chí Minh và đồng bọn là Giặc? Xin thưa rằng không phải . Ngay từ khi bắt đầu soạn bộ Việt Sử nầy năm 1984,chúng tôi đã suy nghĩ và tìm tòi những lý do thầm kín của Việt Minh khi họ chỉ huy cuộc chiến tranh 30 năm máu lửa 1945-1975,tàn sát mấy triệu sinh linh ,nào Việt ,nào Pháp,nào Mỹ ,nào Úc,nào Đại Hàn v.v..Kết luận thấy rằng: 1-Hồi quân đội Pháp của De Gaulle theo chân quân Anh vào Sài gòn với dã tâm tái chiếm Đông Dương ,thì quả thật toàn dân Việt Nam đều tỏ lòng uất hận,ai cũng hăng hái kháng chiến cứu nước.Việt Minh vừa nắm đưọc chính quyền ,lại có sẳn một tổ chức dầy đặctừ Nam chí Băc, để giử vửng quyền Tự Do Độc Lập (lời HCM ngày 2-9-1945)thì đó là một việc rất đáng làm và nên ca ngợi. Song le ,ngay trong khi kháng Pháp,tức Phản Đế,Hồ Chí Minh đã khởi xướng từ năm 1950 chuyện Phản Phong ở những vùng Việt Minh kiểm soát….Chính Hồ Chí Minh và Tổng Bộ Việt Minh,dưới danh hiệu mới là Đảng Lao Động đã chỉ huy cuộc đấu chính trị ấy,tàn sát hơn nửa triệu đồng bào mà họ gọi là giai cấp địa chủ.Hiển nhiênlà không phải để giành Độc Lập. 2-Sau hội nghị Genève ngày 20.7.1954 chia đội đất nước,thì đầu năm 1956 quân đội Pháp phải rút lui ra khỏi hẳn Miền Nam(theo các diều khoản đã thoả thuận cua HĐ).Nhưng Hồ Chí Minh vẫn còn kiếm đủ mọi cách chiếm nốt miền Nam như chôn giấu võ khí , đặt công sản nằm vùng,khủng bố dân quê, ám sát hào mục,rồi đến cuối năm 1960 ,hộ tạo dựng cái goi là “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam”do chính họ cầm đầu ,giả danh là dân Việt Miền Nam tự động đứng lên chống một chính quyền Việt độc tài tham nhũng…Hiển nhiên (việc làm đó)không phải là để dành Độc Lập! 3-Đứng trước nguy cơ bành trướng của ý thứ hệ CS do Việt Minh có cả khối lượng khổng lồ Trung Cộng,Nga Xô, Đông Âuvà Cuba viện trợ ồ ạt,thì các chính phủ Mỹ kế tiếp nhau, đạc biệt là từ năm 1961, đã phải đưa vũ khí rồi quân đội sang giúp bão vệ Miền Nam,với tính cách triệt để phòng vệ chứ không phải là tấn công miền Bắc.Cuộc chiến luôn bị hạn chế vào dưới vĩ tuyến 17,thành ra miền Bắc-ngoại trừ những phi vụ oanh tạc không htể có mục tiêu chiếm đất-đã luôn luôn đưọc thái bìnhyên ổn,làm thành một thánh địa bất khả xâm phạm để nuôi dưởng quân đội của họ xuống xâm lăng miền Nam .Song Việt Minh đã tạo ra những khẩu hiệu “Chống Mỷ Cưú nước”và “chống Mỹ Diệm cứu nước”chỉ cốt để lừa bịp toàn dân Việt Nam và dư luận quốc tế. 4-Vậy chỉ có một lý do khổng thể chối cải là Hồ Chí Minh đã muốn “thống nhất “đất nước dưới quyền độc tôn của Cộng Sản Đệ Tam để có thể xây dựng XHCN và “thiên đường CS trên toàn cỏi VN…. 5-Cái dã tâm chiếm độc quyền thống trị trên toàn quốc để xây dựng XHCN đã được bộc lộ công khai và rỏ rệt nhất sau ngày 30.4.1975mà CS Bắc Việt đã thôn tính xong miền Nam.Họ gạt bỏ Mặt Trận Giải Phóng coi như là múi chanh đã vắt hết nước.Họ công nhiên đặt cho đất nước cái tên “Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nfghiã Việt Nam”: đảng CS trước kia giả danh là đảng Lao Động nay tự công khai tự xưng là đảng Cộng Sản VN(trang 1935)Thiết thực và đau đớn hơn nửa ,cái thiên đường CS đã biến thành điạ ngục cộng sản cho toàn dân,từ Nam chí Bắc ,cho dến ngày nay(1992) chưa chấm dứt. 6-Trong 2,3 năm vừa qua (1989-1991) ý thức hệ CS đã bị khắp hoàn cầu phỉ nhổ,từ Muà Xuân Thiên An Môn (tháng 6/1989) qua những cuộc biểu tình vĩ đại ở Đông Âu ,khiến mọi chế độ Đệ Tam dều sụp đổ,các “thần tượng” Đệ Tam bị hạ bệ,Liên Bang Nga Xô(USSR) tưởng vững như bàn thạch biến tiêu trên mặt địa cầu!Chính Nghiã Dân Chủ Tự Do -của bộ Việt Sử Khảo Luận này-toàn thắng,ngoại trừ ở 4 quốc gia là Cuba,Trung Cộng,Bắc hàn và Việt Nam.Nói cách khác,nhân loại khắp nơi đều đả coi cộng sản là giặc.” (VSKL quyển 4 trang 2011) b- Đảng CSVN không chính thống: “Cho nên chúng tôi phải lên án mọi chính phủ cộng sản Việt Nam từ 1946 đến nay (1998)là vô giá trị đối với Dân Tộc Việt Nam ,tức là không có chính thống.(trang 3759) và ông có đôi lời nhắn nhủ cùng hậu thế, cho thế hệ trẻ tươnglai của Dân Tộc:“Ngày nay ở quốc nội vẫn là đảng Cộng Sản Việt Nam nắm độc quyền ngự trị,mặc dầu họ có chịu thay nền kinh tế tập thể bằng kinh tế thị trường. Độc tài vẫn còn, tham nhũng hối lộ càng tăng tiến.” “Ở Hải Ngoại, các nhóm đảng nổi lên như nấm, nhưng có đảng nào nghĩ đến việc Hưng Quốc ra sao,sau khi đã Phục Quốc? Có ai, hay nhóm nào đã đưa ra một dự thảo chương trình Hưng Quốc theo đúng lập trường Tự Do Dân Chủvà kêu gọi mọi người, sau khi cùng nhau thảo luận, sửa đổi và biểu quyết “HẢY ĐOÀN KẾT CHUNG QUANH CÁI CHƯƠNG TRÌNH HƯNG QUỐC ấy ,chứ không phải chung quanh một lãnh tụ?Bằng không ,thì đến khi ưa may được cầm quyền ,người ta sẽ lại đi ngay vào con đường độc tài tham nhũng như xưa nay.”(trang 3761) (ngưng trích) Nhận định về sử gia Hoàng Cơ Thụy của nhà văn Trần Văn Tích như sau: http://hoinhavanvietnamluuvong.info/plugins/p2_news/printarticle.php?p2_articleid=205 Cuốn “Giặc Việt cộng” của Luật sư Hoàng Cơ Thụy, một phần của tập 9 trong bộ Việt sử khảo luận* cũng tạo nơi độc giả tâm trạng ấy. Trang 2012 xác định. "Cái dã tâm 'chiếm độc quyền thống trị trên toàn quốc để xây dựng xã hội chủ nghĩa' được bộc lộ công khai và rõ rệt sau ngày 30.4.75 mà cộng sản Bắc Việt đã thôn tính xong miền Nam. Họ gạt bỏ Mặt Trận Giải Phóng, coi như là múi chanh đã vắt hết nước. Họ công nhiên đặt cho đất nước cái tên "Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam', đảng Cộng sản trước kia giả danh là 'đảng Lao Động' nay công khai tự xưng là 'đảng Cộng sản Việt Nam'. Thiết thực và đau đớn hơn nữa, cái thiên đường cộng sản đã biến thành địa ngục cộng sản cho toàn dân, từ Nam chí Bắc, đến ngày nay (1992) chưa chấm dứt". Trước đó, trong thư gửi một độc giả ngày 24.9.88, Luật sư họ Hoàng cũng nói rất minh bạch: "Phải viết sao cho (...) đúng theo lập trường độc lập quốc gia, tự do dân chủ". Một cuốn sử trình bày theo lập trường vừa kể, đề cập đến giai đoạn 1945-1975, cho đến nay chưa có ai viết. Đó là thế mạnh của sách. Nó độc quyền cung cấp cho người đọc một cái nhìn tổng thể về các biến cố mà bản thân mình từng là chứng nhân hay đang là nạn nhân. Nhưng đồng thời nó cũng nói lên được những điều phải nói, đáng nói. Trang 2022 bộc bạch cái nhìn của người trong cuộc: "(...) Bọn Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp đã không cần đếm xỉa gì đến những con số khổng lồ quân đội và dân chúng bị giết ở trên mọi chiến trường hay hậu phương, hồi chống Pháp cũng như hồi chống Mỹ: dân chết chứ chúng có chết đâu mà chúng sợ? Can đảm như thế là quá dễ, thế mà cả thế giới, luôn Pháp và Hoa kỳ, đều ngợi khen bọn lãnh tụ cộng sản là can đảm, bền gan và anh hùng". Một cái nhìn của người trong cuộc như thế khác hẳn với cung cách xử sự của những người da trắng da đen từng coi Hồ là thần tượng, từng gọi dân tộc Việt Nam là anh hùng. Chúng ta không hề muốn làm anh hùng theo kiểu mô tả của những ngòi bút phương tây hay châu Phi; một cung cách mô tả mà động cơ là mặc cảm tự ti đối với Hoa kỳ (nên đề cao cuộc chiến chống Mỹ cứu nước: trường hợp những người Pháp, người Anh, người Đức chẳng hạn) hoặc mặc cảm sắc tộc, nên a dua theo đám đệ tử cuồng tín Mác-Lê trên dải đất chữ S (trường hợp điển hình: gã da đen từng nắm giữ Tổ chức Văn hoá Liên Hiệp Quốc đã chủ trương tôn vinh Hồ Chí Minh là nhà văn hoá). Trang 2146 vạch trần tham vọng thực sự, mục đích duy nhất của tập đoàn lãnh tụ cộng sản: "gây nên cái họa chiến tranh ba mươi năm, tàn sát hàng mấy triệu thanh niên Việt, Pháp, Mỹ, Đại Hàn hay ồc Đại Lợi. Để làm gì? Để tự lột mặt nạ sau ngày 30.4.75, tuyên bố công khai Xã hội chủ nghĩa, và... thất bại hoàn toàn mười năm sau". Trang 2149 trình bày quan điểm của nhà luật học phán xét lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: "Hồ Chí Minh chỉ kêu gọi toàn dân 'kháng chiến chống Pháp giành độc lập thống nhất', chứ không thêm rằng 'và để cứu đảng Cộng sản Đông Dương, để cho Đảng có thể đấu tố trí phú địa hào, tịch thu ruộng đất tài sản của đồng bào, xây dựng Xã hội Chủ nghĩa và thiên đường cộng sản'. Đó là sự giấu giếm và gian trá hệ trọng nhất, đã lường gạt toàn dân, khiến cho Việt Minh cộng sản không bao giờ có 'chính thống', ngay từ phút ban đầu (fraus omnia corrumpit = gian trá làm hư hết).” Nơi trang 2091, chúng ta chứng kiến sự gian manh vô sỉ của các ngòi bút viết sử cộng sản khi cuốn Lịch sử Việt Nam 1945-1975 của Hà Nội, xuất bản năm 1987, tường thuật tại trang 15 rằng "đồng chí Võ Nguyên Giáp dẫn đầu phái đoàn Việt Nam đi họp hội nghị trù bị tại Đà lạt" trong khi thực ra chính Nguyễn Tường Tam, trong tư cách Bộ trưởng Ngoại giao, mới là trưởng đoàn hội nghị liên hệ. Trang 2095 kể một cách trung ngôn nghịch nhĩ về một nhân vật hiện đang sinh sống và giao thiệp với tác giả: "(...) đến tận năm 1971 mà ông Hoàng Xuân Hãn vẫn còn tưởng rằng cộng sản Võ Nguyên Giáp làm việc cho dân cho nước, chứ không phải cho Đảng (là điều y giấu kín), thì còn trách chi hai chục triệu đồng bào đã u mê - hay quá sợ sệt - mà như con thiêu thân nhảy vào biển lửa ở Vĩnh Yên, Ninh Bình, Đông Triều (thời De Lattre) hay Điện Biên Phủ (thời Navarre)..." Nếu thêm vài chữ nữa: "Bình Trị Thiên, đường mòn Hồ Chí Minh (thời 'chống Mỹ cứu nước')" thì câu văn này trở thành ngọn đình liệu soi đường cho những Bùi Tín, những Dương Thu Hương cũng như những người "phản kháng" khác. Nên ghi nhận rằng sau ngữ đoạn này còn thêm một câu thấm thía: "Nói cách khác, trong khi ở ngoài miệng Giáp nói rằng 'phải đoàn kết' thì trong lòng y tự nhủ rằng 'chỉ đoàn kết giai đoạn thôi'. Tam (Nguyễn Tường Tam) và Hãn (Hoàng Xuân Hãn) có dại thì tin". Chính sự u mê, mông muội lao đầu vào cái gọi là chiến tranh vệ quốc -- trong khi thực ra là vệ đảng -- trước đây rồi mới đây, vào cái gọi là chiến tranh giải phóng miền Nam của không biết bao nhiêu thanh niên thanh nữ và cả những người trung niên, đã khiến lão Hoàng Quốc Việt có dịp xoa đầu đám quần chúng đó mà ban khen một cách hết sức trịch thượng rằng nhân dân ta rất anh hùng”. c-Qua bộ sử vĩ đại và đầy công phu gồm gần 4000 trang sách khổ lớn, soạn thảo kỹ càng, với tuổi tác trên 80 cho thấy ông Hoàng Cơ Thụy là một chiến sĩ quốc gia kiên trì chiến đấu cho tự do, độc lập và luôn chiến đấu trong mọi tình huống, tuổi già không làm trở ngại những hoài bão của ông đối với Quốc Gia và Dân Tộc. Ông có những nhận định rất tinh tế và chân thật trong cuôc chiến VN, ông là một nhân chứng sống có giá trị trong chức vụ Đại Sứ VNCH tại Vương Quốc Lào và là một sử gia không chuyên nghiệp nhưng bộ sử soạn thảo rất công phu và cập nhật đầy đủ tài liệu lịch sử, rất cần cho thế hệ trẻ VN để tìm hiểu chủ thuyết sai lầm của đảng CSVN cần phải tránh và những hoài bão cuả thế hệ trẻ mong muốn đi tìm con đường phục hưng đất nước.

Hoàng Cơ Thụy

10- Sử gia Hoàng Cơ Thụy: Hoàng Cơ Thụy (1912- mất chưa rõ năm) Sinh ngày 24-9-1912 t ại làng Vẽ(Đông Ngạc) tỉnh Hà Đông trong một gia đình lâu đời xuất thân khoa bảng. -Cử nhân luật khoa đại học Hà Nội (1935) -Luật sư cạnh các toà Thượng Thẩm (1938-1969) -Tham gia toàn dân kháng chiến dành Độc Lập (Chánh án toà Sơ Thẩm Bến Tre) -Đại sứ VNCH tại Lào (1969-1975) -Ba lần tù :Tù Việt Minh (1945),tù thưc dân Pháp (1946) và tù VNCH (1964). -Tác phẩm : Việt Sử Khảo Luận NXB Nam Á 2002,một bộ sử đồ sộ gồm 6 quyển với 3928 trang khổ lớn .Soạn liên tục 17 năm từ 1984 đến 2001 trong thời điểm tác giả gần 80 tuổi đời! Giải thưởng Văn Học 2004 Hội Đồng Tuyển Lựa : Nhà văn Võ Phiến, Nhà văn Nguyễn Hưng Quốc, Bác sĩ Trần Văn Tích, Nhà văn Phan Lạc Phúc, Nhà văn Doãn Quốc Sỹ, Giáo sư Trần Gia Phụng Tác phẩm trúng giải Bộ môn biên khảo. Giải danh dự đặc biệt: truy tặng ông Hoàng Cơ Thụy, tác giả bộ Việt sử khảo luận -Long Điền tóm lược các nhận định của sử gia Hoàng Cơ Thụy như sau: Sử gia Hoàng Cơ Thụy có nhận định về những ngày đầu cuộc chiến 1945-1954 như sau: (Trang 1978 quyển 4 VSKL) “Cuốn phim tổng quát:Vụ nổ bất ngờ hai trái bom nguyên tử Mỹ trên bầu trời Nhật Bản vào các ngày 6 và 9 tháng 8 năm 1945, tiếp theo cấp tốc bởi lời tuyên cáo truyền thanh ngày 15tháng 8 của Nhật Hoàng Hiro Hito xin đầu hàng đồng mịnhvô điều kiện và ra ra lệnh cho mọi đạo quân Nhật trên mọi chiến trường phải buông súng, đúng là “Ba cục đá”(trois pavés) liệng vào “cái đầm ếch Đông Dương”( la mare d’Indochine aix grenouilles) . Mọi người ở mọi nơi náo động , cả trong và ngoài bán đảo chữ S….. Vậy đến khi xảy ra ba biến cố bất ngờ vừa nhắc trên, thì đúng lý quân đội Nhật ở Đông Dương phải buông súng, ngồi đợi quân đội Tàu Tưởng và quân đội Anh dến giải giới và giữ gìn an ninh trật tự. Ba dân tộc Việt , Miên, Lào với 3 vị quốc vương la Bảo Đại, Sihanouk và SosavangVong cứ việc yên ổn làm ăn, toạ hưởng kỳ thànhvà hoan hô Đống Minh đến giải phóng. Thật là tốt đẹp. Những kẻ “phá đám”Cộng Sản Việt(có Mỹ giúp) và thực dân Pháp( không còn bị Mỹ phản đối). Về mặt chính trị: Trên đây đã kể những chuẩn bị của Việt Minh một bên, của Pháp Đe Gaulle phe bên kia để cướp đoạt Việt Nam, rồi Miên, Lào trong tay quân đội Nhật. Đặc biệt nữa là hai phe ấy có liên lạc cùng nhau để chuẩn bị cùng đánh Nhật, mà chính Việt Minh đã đi bước trước, ngay từ tháng 5/1944(trang 1938-1941). Thực sự thì cả hai phe muốn chiếm độc quyền thống trị Đông Dương: De Gaule đã tuyên bố công khai rằng ông phải tái lập chủ quyền Pháp tại năm nước:Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, Ai Lao và Cao Miên. Còn Hồ Chí Minh thì giấu kín cái mộng “ làm bá chủ Đông Dương” để sẽ có thể Cộng Sản Hoá toàn thể bán đảo, rồi sau sẽ cùng với Stalin nhuộm đỏ toàn cầu”…… Hồi giữa năm 1945, Hồ Chí Minh –cũng như mọi người- tưởng rằng Nhật sẽ còn chống cự khá lâu, bởi vì họ còn rất nhiều quân lực uy mãnh ở Đông Dương; vậy Hồ phải đi đôi với Đồng Minh(Tàu, Mỹ và luôn cả Pháp De Gaulle) thì may ra mới có cơ hạ được Nhật. Nên HỒ phải đội lốt Quốc Gia để lừa mọi người, nhất là Mỹ. Đó là Hồ áp dụng một chiến lược của Cộng Sản Đệ Tam rằngphải nghiên cứu kỹ xem ai là kẻ thù chính và xem ai là kẻ thù phụ. Hồi 1945, quân đội Nhật ở Đông Dương là kẻ thù chính, còn Pháp của De Gaulle ở tận trời Âu là kẻ thù phụ, vậy Việt Minh nên liên kết Giai Đoạn” với phe De Gaulle( luôn cả phe Tàu Tưởng và Hoa Kỳ ) để đánh đổ Nhật, xong rồi sẽ thanh toán các” bạn giai đoạn” sau( trang 1935). Có biết rõ cái chiến lược gian hùng ấy của Hồ Chí Minh thì ta mới có thể hiển được những biến cố chính trị và quân sự hồi 1945-1946.Bằng không ta sẽ rơi vào hoả mù các cuộc chiến quân sự và chính trị liên miên, hàng nghìn trận chiến Pháp Việt, hàng trăm vụ phản phúc của Hồ Chí Minh.”…. Nói tóm lại, Hồ Chí Minh (có Mỹ-OSS giúp)và De Gaulle (khônhg còn bị Mỹ - Truman chống đối) là những kẻ” phá đám “ (Trouble fête) làm xáo trộn tình hình Việt Miên Lào trong 30 năm chiến tranh(1945-1975) và đến nay(1992) là thêm 17 năm hậu chiến của cả ba Dân Tộc trong ngục tù cộng sản.( trang 1980) a-Hồ Chí Minh và đồng bọn là giặc, là thổ phỉ : “Thiết nghĩ nên giải thích tại sao chúng tôi dùng danh từ “Giặc Việt Cộng”làm nhan đề cho phần VIII bộVSKL nầy .Phải chăng chúng tôi đã lãng quên tư cách một sử gia khách quan ,xông vào vòng bút chiến ,nên mới gọi ông Hồ Chí Minh và đồng bọn là Giặc? Xin thưa rằng không phải . Ngay từ khi bắt đầu soạn bộ Việt Sử nầy năm 1984,chúng tôi đã suy nghĩ và tìm tòi những lý do thầm kín của Việt Minh khi họ chỉ huy cuộc chiến tranh 30 năm máu lửa 1945-1975,tàn sát mấy triệu sinh linh ,nào Việt ,nào Pháp,nào Mỹ ,nào Úc,nào Đại Hàn v.v..Kết luận thấy rằng: 1-Hồi quân đội Pháp của De Gaulle theo chân quân Anh vào Sài gòn với dã tâm tái chiếm Đông Dương ,thì quả thật toàn dân Việt Nam đều tỏ lòng uất hận,ai cũng hăng hái kháng chiến cứu nước.Việt Minh vừa nắm đưọc chính quyền ,lại có sẳn một tổ chức dầy đặctừ Nam chí Băc, để giử vửng quyền Tự Do Độc Lập (lời HCM ngày 2-9-1945)thì đó là một việc rất đáng làm và nên ca ngợi. Song le ,ngay trong khi kháng Pháp,tức Phản Đế,Hồ Chí Minh đã khởi xướng từ năm 1950 chuyện Phản Phong ở những vùng Việt Minh kiểm soát….Chính Hồ Chí Minh và Tổng Bộ Việt Minh,dưới danh hiệu mới là Đảng Lao Động đã chỉ huy cuộc đấu chính trị ấy,tàn sát hơn nửa triệu đồng bào mà họ gọi là giai cấp địa chủ.Hiển nhiênlà không phải để giành Độc Lập. 2-Sau hội nghị Genève ngày 20.7.1954 chia đội đất nước,thì đầu năm 1956 quân đội Pháp phải rút lui ra khỏi hẳn Miền Nam(theo các diều khoản đã thoả thuận cua HĐ).Nhưng Hồ Chí Minh vẫn còn kiếm đủ mọi cách chiếm nốt miền Nam như chôn giấu võ khí , đặt công sản nằm vùng,khủng bố dân quê, ám sát hào mục,rồi đến cuối năm 1960 ,hộ tạo dựng cái goi là “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam”do chính họ cầm đầu ,giả danh là dân Việt Miền Nam tự động đứng lên chống một chính quyền Việt độc tài tham nhũng…Hiển nhiên (việc làm đó)không phải là để dành Độc Lập! 3-Đứng trước nguy cơ bành trướng của ý thứ hệ CS do Việt Minh có cả khối lượng khổng lồ Trung Cộng,Nga Xô, Đông Âuvà Cuba viện trợ ồ ạt,thì các chính phủ Mỹ kế tiếp nhau, đạc biệt là từ năm 1961, đã phải đưa vũ khí rồi quân đội sang giúp bão vệ Miền Nam,với tính cách triệt để phòng vệ chứ không phải là tấn công miền Bắc.Cuộc chiến luôn bị hạn chế vào dưới vĩ tuyến 17,thành ra miền Bắc-ngoại trừ những phi vụ oanh tạc không htể có mục tiêu chiếm đất-đã luôn luôn đưọc thái bìnhyên ổn,làm thành một thánh địa bất khả xâm phạm để nuôi dưởng quân đội của họ xuống xâm lăng miền Nam .Song Việt Minh đã tạo ra những khẩu hiệu “Chống Mỷ Cưú nước”và “chống Mỹ Diệm cứu nước”chỉ cốt để lừa bịp toàn dân Việt Nam và dư luận quốc tế. 4-Vậy chỉ có một lý do khổng thể chối cải là Hồ Chí Minh đã muốn “thống nhất “đất nước dưới quyền độc tôn của Cộng Sản Đệ Tam để có thể xây dựng XHCN và “thiên đường CS trên toàn cỏi VN…. 5-Cái dã tâm chiếm độc quyền thống trị trên toàn quốc để xây dựng XHCN đã được bộc lộ công khai và rỏ rệt nhất sau ngày 30.4.1975mà CS Bắc Việt đã thôn tính xong miền Nam.Họ gạt bỏ Mặt Trận Giải Phóng coi như là múi chanh đã vắt hết nước.Họ công nhiên đặt cho đất nước cái tên “Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nfghiã Việt Nam”: đảng CS trước kia giả danh là đảng Lao Động nay tự công khai tự xưng là đảng Cộng Sản VN(trang 1935)Thiết thực và đau đớn hơn nửa ,cái thiên đường CS đã biến thành điạ ngục cộng sản cho toàn dân,từ Nam chí Bắc ,cho dến ngày nay(1992) chưa chấm dứt. 6-Trong 2,3 năm vừa qua (1989-1991) ý thức hệ CS đã bị khắp hoàn cầu phỉ nhổ,từ Muà Xuân Thiên An Môn (tháng 6/1989) qua những cuộc biểu tình vĩ đại ở Đông Âu ,khiến mọi chế độ Đệ Tam dều sụp đổ,các “thần tượng” Đệ Tam bị hạ bệ,Liên Bang Nga Xô(USSR) tưởng vững như bàn thạch biến tiêu trên mặt địa cầu!Chính Nghiã Dân Chủ Tự Do -của bộ Việt Sử Khảo Luận này-toàn thắng,ngoại trừ ở 4 quốc gia là Cuba,Trung Cộng,Bắc hàn và Việt Nam.Nói cách khác,nhân loại khắp nơi đều đả coi cộng sản là giặc.” (VSKL quyển 4 trang 2011) b- Đảng CSVN không chính thống: “Cho nên chúng tôi phải lên án mọi chính phủ cộng sản Việt Nam từ 1946 đến nay (1998)là vô giá trị đối với Dân Tộc Việt Nam ,tức là không có chính thống.(trang 3759) và ông có đôi lời nhắn nhủ cùng hậu thế, cho thế hệ trẻ tươnglai của Dân Tộc:“Ngày nay ở quốc nội vẫn là đảng Cộng Sản Việt Nam nắm độc quyền ngự trị,mặc dầu họ có chịu thay nền kinh tế tập thể bằng kinh tế thị trường. Độc tài vẫn còn, tham nhũng hối lộ càng tăng tiến.” “Ở Hải Ngoại, các nhóm đảng nổi lên như nấm, nhưng có đảng nào nghĩ đến việc Hưng Quốc ra sao,sau khi đã Phục Quốc? Có ai, hay nhóm nào đã đưa ra một dự thảo chương trình Hưng Quốc theo đúng lập trường Tự Do Dân Chủvà kêu gọi mọi người, sau khi cùng nhau thảo luận, sửa đổi và biểu quyết “HẢY ĐOÀN KẾT CHUNG QUANH CÁI CHƯƠNG TRÌNH HƯNG QUỐC ấy ,chứ không phải chung quanh một lãnh tụ?Bằng không ,thì đến khi ưa may được cầm quyền ,người ta sẽ lại đi ngay vào con đường độc tài tham nhũng như xưa nay.”(trang 3761) (ngưng trích) Nhận định về sử gia Hoàng Cơ Thụy của nhà văn Trần Văn Tích như sau: http://hoinhavanvietnamluuvong.info/plugins/p2_news/printarticle.php?p2_articleid=205 Cuốn “Giặc Việt cộng” của Luật sư Hoàng Cơ Thụy, một phần của tập 9 trong bộ Việt sử khảo luận* cũng tạo nơi độc giả tâm trạng ấy. Trang 2012 xác định. "Cái dã tâm 'chiếm độc quyền thống trị trên toàn quốc để xây dựng xã hội chủ nghĩa' được bộc lộ công khai và rõ rệt sau ngày 30.4.75 mà cộng sản Bắc Việt đã thôn tính xong miền Nam. Họ gạt bỏ Mặt Trận Giải Phóng, coi như là múi chanh đã vắt hết nước. Họ công nhiên đặt cho đất nước cái tên "Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam', đảng Cộng sản trước kia giả danh là 'đảng Lao Động' nay công khai tự xưng là 'đảng Cộng sản Việt Nam'. Thiết thực và đau đớn hơn nữa, cái thiên đường cộng sản đã biến thành địa ngục cộng sản cho toàn dân, từ Nam chí Bắc, đến ngày nay (1992) chưa chấm dứt". Trước đó, trong thư gửi một độc giả ngày 24.9.88, Luật sư họ Hoàng cũng nói rất minh bạch: "Phải viết sao cho (...) đúng theo lập trường độc lập quốc gia, tự do dân chủ". Một cuốn sử trình bày theo lập trường vừa kể, đề cập đến giai đoạn 1945-1975, cho đến nay chưa có ai viết. Đó là thế mạnh của sách. Nó độc quyền cung cấp cho người đọc một cái nhìn tổng thể về các biến cố mà bản thân mình từng là chứng nhân hay đang là nạn nhân. Nhưng đồng thời nó cũng nói lên được những điều phải nói, đáng nói. Trang 2022 bộc bạch cái nhìn của người trong cuộc: "(...) Bọn Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp đã không cần đếm xỉa gì đến những con số khổng lồ quân đội và dân chúng bị giết ở trên mọi chiến trường hay hậu phương, hồi chống Pháp cũng như hồi chống Mỹ: dân chết chứ chúng có chết đâu mà chúng sợ? Can đảm như thế là quá dễ, thế mà cả thế giới, luôn Pháp và Hoa kỳ, đều ngợi khen bọn lãnh tụ cộng sản là can đảm, bền gan và anh hùng". Một cái nhìn của người trong cuộc như thế khác hẳn với cung cách xử sự của những người da trắng da đen từng coi Hồ là thần tượng, từng gọi dân tộc Việt Nam là anh hùng. Chúng ta không hề muốn làm anh hùng theo kiểu mô tả của những ngòi bút phương tây hay châu Phi; một cung cách mô tả mà động cơ là mặc cảm tự ti đối với Hoa kỳ (nên đề cao cuộc chiến chống Mỹ cứu nước: trường hợp những người Pháp, người Anh, người Đức chẳng hạn) hoặc mặc cảm sắc tộc, nên a dua theo đám đệ tử cuồng tín Mác-Lê trên dải đất chữ S (trường hợp điển hình: gã da đen từng nắm giữ Tổ chức Văn hoá Liên Hiệp Quốc đã chủ trương tôn vinh Hồ Chí Minh là nhà văn hoá). Trang 2146 vạch trần tham vọng thực sự, mục đích duy nhất của tập đoàn lãnh tụ cộng sản: "gây nên cái họa chiến tranh ba mươi năm, tàn sát hàng mấy triệu thanh niên Việt, Pháp, Mỹ, Đại Hàn hay ồc Đại Lợi. Để làm gì? Để tự lột mặt nạ sau ngày 30.4.75, tuyên bố công khai Xã hội chủ nghĩa, và... thất bại hoàn toàn mười năm sau". Trang 2149 trình bày quan điểm của nhà luật học phán xét lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: "Hồ Chí Minh chỉ kêu gọi toàn dân 'kháng chiến chống Pháp giành độc lập thống nhất', chứ không thêm rằng 'và để cứu đảng Cộng sản Đông Dương, để cho Đảng có thể đấu tố trí phú địa hào, tịch thu ruộng đất tài sản của đồng bào, xây dựng Xã hội Chủ nghĩa và thiên đường cộng sản'. Đó là sự giấu giếm và gian trá hệ trọng nhất, đã lường gạt toàn dân, khiến cho Việt Minh cộng sản không bao giờ có 'chính thống', ngay từ phút ban đầu (fraus omnia corrumpit = gian trá làm hư hết).” Nơi trang 2091, chúng ta chứng kiến sự gian manh vô sỉ của các ngòi bút viết sử cộng sản khi cuốn Lịch sử Việt Nam 1945-1975 của Hà Nội, xuất bản năm 1987, tường thuật tại trang 15 rằng "đồng chí Võ Nguyên Giáp dẫn đầu phái đoàn Việt Nam đi họp hội nghị trù bị tại Đà lạt" trong khi thực ra chính Nguyễn Tường Tam, trong tư cách Bộ trưởng Ngoại giao, mới là trưởng đoàn hội nghị liên hệ. Trang 2095 kể một cách trung ngôn nghịch nhĩ về một nhân vật hiện đang sinh sống và giao thiệp với tác giả: "(...) đến tận năm 1971 mà ông Hoàng Xuân Hãn vẫn còn tưởng rằng cộng sản Võ Nguyên Giáp làm việc cho dân cho nước, chứ không phải cho Đảng (là điều y giấu kín), thì còn trách chi hai chục triệu đồng bào đã u mê - hay quá sợ sệt - mà như con thiêu thân nhảy vào biển lửa ở Vĩnh Yên, Ninh Bình, Đông Triều (thời De Lattre) hay Điện Biên Phủ (thời Navarre)..." Nếu thêm vài chữ nữa: "Bình Trị Thiên, đường mòn Hồ Chí Minh (thời 'chống Mỹ cứu nước')" thì câu văn này trở thành ngọn đình liệu soi đường cho những Bùi Tín, những Dương Thu Hương cũng như những người "phản kháng" khác. Nên ghi nhận rằng sau ngữ đoạn này còn thêm một câu thấm thía: "Nói cách khác, trong khi ở ngoài miệng Giáp nói rằng 'phải đoàn kết' thì trong lòng y tự nhủ rằng 'chỉ đoàn kết giai đoạn thôi'. Tam (Nguyễn Tường Tam) và Hãn (Hoàng Xuân Hãn) có dại thì tin". Chính sự u mê, mông muội lao đầu vào cái gọi là chiến tranh vệ quốc -- trong khi thực ra là vệ đảng -- trước đây rồi mới đây, vào cái gọi là chiến tranh giải phóng miền Nam của không biết bao nhiêu thanh niên thanh nữ và cả những người trung niên, đã khiến lão Hoàng Quốc Việt có dịp xoa đầu đám quần chúng đó mà ban khen một cách hết sức trịch thượng rằng nhân dân ta rất anh hùng”. c-Qua bộ sử vĩ đại và đầy công phu gồm gần 4000 trang sách khổ lớn, soạn thảo kỹ càng, với tuổi tác trên 80 cho thấy ông Hoàng Cơ Thụy là một chiến sĩ quốc gia kiên trì chiến đấu cho tự do, độc lập và luôn chiến đấu trong mọi tình huống, tuổi già không làm trở ngại những hoài bão của ông đối với Quốc Gia và Dân Tộc. Ông có những nhận định rất tinh tế và chân thật trong cuôc chiến VN, ông là một nhân chứng sống có giá trị trong chức vụ Đại Sứ VNCH tại Vương Quốc Lào và là một sử gia không chuyên nghiệp nhưng bộ sử soạn thảo rất công phu và cập nhật đầy đủ tài liệu lịch sử, rất cần cho thế hệ trẻ VN để tìm hiểu chủ thuyết sai lầm của đảng CSVN cần phải tránh và những hoài bão cuả thế hệ trẻ mong muốn đi tìm con đường phục hưng đất nước.