Wednesday, January 22, 2025

CCVN 8

 Hiện chính tình nội bộ Việt Nam Cộng sản như một ngôi nhà mục nát, còn tệ hơn các nước cộng sản Nga Xô và Đông Âu trước năm 1989. Chế độ gọi là Xã hội chủ nghĩa theo tư tưởng Hồ chí Minh chỉ là một danh xưng rẻ tiền làm bình phong cho một hệ thống thảo khấu cấu kết từ trên xuống dưới, bán nước buôn dân mà mục tiêu chỉ là tham ô, vơ vét cho đầy túi, mặc cho dân đói vì thiếu ăn, dân chết vì không thuốc chữa, dân nhục vì đất đai lãnh hải đã bị CSVN lén nhượng cho kẻ thù phương Bắc, dân khổ vì nửa triệu thanh niên và phụ nữ muốn có được miếng cơm manh áo phải hưởng ứng chủ trương của bạo quyền bỏ nước ra đi làm lao nô và gái mãi dâm trá hình dưới diện lấy chồng ngoại quốc.

Trong lúc đó, ai cũng biết trong nội bộ của CSVN ngày này, trên nói dưới không nghe vì cả bọn đều giành ăn thì đâu còn ai nghe ai nữa. Trên chóp bu đảng thì có bè phái xung đột nhau, tranh giành quyền lực, xâu xé giữa cánh thân Nga và cánh thân Tàu, cánh giáo điều và cánh cởi mở, cánh nắm chức vụ béo bở giàu sụ và cánh không có cơ hội đói khô, cộng thêm yếu tố địa phương Nam/Trung/Bắc, chưa kể những chia rẽ trong quân đội kéo dài ầm ĩ hàng hai chục năm nay giữa cánh đương nắm quân ủy và cánh Võ Nguyên Giáp bị đè bẹp trù ếm.

 Do tình trạng các cấp lãnh đạo tiêu diệt lẫn nhau, tự hủy hoại cơ chế, nên chắc chắn đến một thời điểm nào đó, cơ sở đảng và cơ quan nhà nước bị xoáy mòn rã ngũ, cộng thêm nỗ lực đấu tranh của nội địa/hải ngoại giáp công, làm cho chế độ bị bất thần sụp đổ như ở Đông Âu.

 Tóm lại, vấn đề không còn là Cộng Sản Việt Nam sẽ sụp đổ hay không, mà chỉ có vấn đề chừng nào sẽ sụp đổ. Tuy nhiên, trên tất cả, chúng ta cần ghi nhớ một vấn đề có tầm mức quan trọng vượt bực. Đó là người quốc gia chúng ta, trong đó có quý vị hiện diện trong đại hội hôm nay, chúng ta đã sẵn sàng để góp phần vào công việc phục hưng đất nước trong thời kỳ hậu cộng sản hay chưa?[xxxviii]

 

-Qua dẫn chứng những lời phát biểu của ông Nguyễn Bá Cẩn, chúng ta thấy ông nhận định cuộc chiến VN 1945-1975 như sau:

-Đây là 1 cuộc chiến ủy nhiệm mà phía CSVN nhận chỉ thị từ khối CSQT để tấn công Miền Nam. Trong khi đó nhân dân Miền Nam chỉ tự vệ qua sự giúp đỡ cuả các nước Tự Do để chống làn sóng đỏ nằm trong kế hoạch chiến lược của Hoa Kỳ đi tìm một trật tự thế giới mới sau Đệ Nhị Thế Chiến khi mà khối CSQT muốn thôn tính cả thế giới.


CCVN 7

 Cựu đại úy Nguyễn Văn Nhựt, sĩ quan tùy viên của phó Tổng Thống Trần Văn Hương cho người viết biết vào những ngày tháng cuối cùng trong tháng 4 ,1975, cụ Trần Văn Hương đã nói với anh em phục vụ tại phủ Phó Tổng Thống rằng: «Thấy các em còn trẻ tuổi mà phải chịu hy sinh gian khổ vì chiến tranh, qua rất thương, nhưng số phận của đất nước mình là như vậy, mình phải đánh cho tới cùng »

Sau khi bàn giao chức vụ TT cho Dương Văn Minh, tối 28 tháng tư, cụ Trần Văn Hương đã dọn ngay về tư gia ở trong hẻm đường Phan Thanh Giản. Tuy nhiên, sáng hôm sau, ngày 29 tháng tư, cụ phải trở lại dinh Phó Tổng Thống ở đường Công Lý một lần cuối để tiếp kiến đại sứ Martin khi Martin đên từ giã cụ.

Trong một cuộc tiếp xúc với BS Nguyễn Lưu Viên, cựu Phó Thủ Tướng VNCH, tại Westminster vào cuối 2ợ, BSViên có cho người viết biết rằng vào sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975, ông và bà Trần Văn Văn có đến thăm cụ Trần Văn Hương một lần cuối và cụ Hương đã nói với hai người rằng hai vị đại sứ Pháp và Hoa Kỳ có đến mời ông đi tị nạn, nhưng ông đã từ chối lời mời của họ.

Vào năm 1978, khi Việt Cộng trả lại «quyền công dân cho Dương Văn Minh, các anh em đang bị tù học tập cải tạo đều bị đi xem hình ảnh và phim chiếu lại cảnh cựu «Tổng Thống» Dương Văn Minh đang hồ hỡi hân hoan đi bầu Quốc Hội «đảng cử dân bầu » của Cộng Sản.

Cụ Trần Văn Hương cũng được CS trả lại quyền công dân, nhưng cụ đã từ chối. Cựu Tổng Thống VNCH Trần Văn Hương đã gởi bức thư sau đây đến cấp lãnh đạo chính quyền CS :

«… Hiện nay vẫn còn có mấy trăm ngàn nhơn viên chế độ cũ, cả văn lẫn võ, từ Phó Thủ tướng đến Tổng bộ trưởng,các tướng lãnh, quân nhân công chức các cấp, các chính trị gia, các vị lãnh đạo tôn giáo, đảng phái, đang bị tập trung cải tạo, rĩ tai thì ngắn hạn mà cho đến nay vẫn chưa thấy về.

Tôi là người đứng đầu hàng lãnh đạo chánh phủ VNCH, xin lãnh hết trách nhiệm một mình. Tôi xin chánh phủ mới thả họ về hết, vì họ là những người chỉ biết thừa hành mạng lệnh cấp trên, họ không có tội gì cả. Tôi xin chánh phủ mới tha họ về sum họp với vợ con, còn lo làm ăn xây dựng đất nước.

Chừng nào những người tập trung cải tạo được về hết, chừng nào họ nhận được đầy đủ quyền công dân, chừng đó, tôi sẽ là người cuối cùng, sau họ, nhận quyền công dân cho cá nhân tôi »

Cụ Trần Văn Hương không hề nhận quyền công dân của Cộng Sản và cho đến khi từ trần vào năm 1981 thì cụ vẫn còn là công dân của Việt Nam Cộng Hòa.

(Trần Đông Phong. Việt Nam Cộng Hòa, 10 ngày cuối cùng.-- California : Nam Việt, 2006, tr. 352-355)

 

(ngưng trích)

Hảo tâm nhân  thơ cảm tác của Long Điền

 

 

Kẻ sỹ miền Nam cơn quốc hận.

Cụ Trần(1) đáng mặt hảo tâm nhân,

Thanh bạch(2) trọn đời dù chức trọng,

Hiểm nguy Quốc nạn(3) xá gì thân.

Cường quyền bạo lực(4) khôn lay chuyển,

Trách nhiệm vẹn toàn trước quốc dân.

“Thi hành bổn phận bao kẻ tội,

Hà cớ gì tôi được lảnh phần!”

Công dân quyền hão xin trao lại

Lịch sử ghi danh trước mộ phần!(5)


Long-Ðiền (1/2005)


(1)Cụ Trần Văn Hương Phó Tổng-Thống Ðệ Nhị VNCH.

(2)Sau khi bàn giao chức vụ Tổng Thống cho Tướng Dương-Văn-Minh ông về ngụ tại 1 căn nhà nhỏ,cuộc sống rất chật vật chứng tỏ trong thời tại chức ông rất thanh liêm..

(3) Ðại sứ Martin(Pháp) sau 1975 đề nghị cung cấp phương tiện vận chuyển ra nước ngoài nhưng ông đã từ chối và tình nguyện ở lại để chia xẻ tủi nhục với dân miền Nam.

(4)Bọn CSVN nhiều lần hù dọa,nhưng ông cương quyết không nhận giấy trả quyền công dân,sau đó CSVN trả thù tịch thu đồ vật trong nhà và ra lịnh quản thúc tại gia 3 năm.

(5)Khi bị bệnh nặng người nhà chở vô bệnh viện để cấp cứu nhưng khi tỉnh dậy cụ đã bảo người nhà chở về vi bệnh viện nầy nay do CSVN chiếm.giử.Sau đó ông mất tại tư gia.

Xem bài viết của tác giả Hứa Hoành về cụ Trần-Văn- Hương:

http://doanket.web1000.com/tongquat/tvhuong.html

-Nhận định của Long Điền qua những lời phát biểu cuả cụ Trần Văn Hương về Cuộc Chiến Việt Nam :   

-Miền Nam có chính nghiã và phải bão vệ chính nghiã đó.Vì nhiều lý do chính trị Hoa Kỳ nước đồng minh của VNCH đã phản bội lời hứa bảo vệ Miền Nam khỏi thảm hoạ CS thì chính người Miền Nam phải chiụ sự đau khổ và mất mát đó.Riêng Hoa Kỳ và các nước thuộc khối Tự Do đã đứng ra kêu gọi VNCH hợp tác ngăn nhận làn sóng Đỏ thì họ phải chịu trách nhiệm lương tâm trước thế giới.

Người dân Miền Nam không thích sống chung với Cộng Sản, vì họ ghê tởm các hành động tàn ác của CSVN, nhưng họ không thể cán đáng công việc ngăn chận làn sóng Đỏ Quốc Tế một cách hữu hiệu nếu không có viện trợ của phe đồng minh. Theo tài liệu thống kê  thì viện trợ của phe CS Quốc Tế cho Miền Bắc năm 1975 nhiều gấp 5 lần của khối Tự Do viện trợ cho Miền Nam VN.[xxxv]

-Trước 1945 cụ  cũng đã từng hợp tác với Việt Minh, giữ chức vụ cao  trong kháng chiến chống thực dân Pháp, nhưng chỉ sau 1 năm, nhận được bộ mặt thật Cộng sản cuả chúng, cụ đã nhanh chóng rời bỏ hàng ngủ CS để quay về với phiá Quốc Gia chống cả Pháp và Cộng sản .

-Là một người có tinh thần trách nhiệm cao, cụ  chấp nhận ở lại VN,chịu tù đày và không khuất phục trước bạo quyền CS.Thật đáng noi gương cho những ai có lý tưởng vì Quốc gia Dân Tộc.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


CCVN 6

 -“Thời gian qua em và một các anh em quân nhân cũng đã rất mệt lo cho qua. Xin cho qua gởi lời cám ơn đến các em. Qua cầu chúc cho em và tất cả quân nhân cùng gia đình được bình an và mọi sự may mắn trong tương lai…”

Tôi nhìn Cụ và cảm thấy thương Cụ vô cùng, cả tôi và Cụ không cầm được nước mắt. Tôi thấy Cụ cố nén nỗi buồn, thỉnh thoảng lấy khăn ra chậm giọt nước mắt cho nó khỏi rơi xuống. Cụ muốn nói nhiều, nhưng giọng nói ngắt quãng vì xúc động. Trong khi nhìn qua Cương thì nước mắt tuôn trào. Tôi nhìn Cụ và nói:

-“Thưa Cụ, xin Cụ yên tâm, là quân nhân việc gian khổ là chuyện bình thường, xin Cụ chớ bận tâm. Con cầu xin mọi sự an lành đến với Cụ vì Cụ là người lảnh đạo của đất nước. Con sợ mọi sự không lành đến với Cụ.”

Cụ ân cần nói với tôi:

-“Em đừng lo cho qua, qua chọn việc ở lại với đất nước là qua chấp nhận tất cả mọi việc không may xảy ra đối với qua. Qua hiểu rằng khi cộng sản chiếm đất nước thì dân tình sẽ bất hạnh và khốn khổ khôn lường. Cái chết, đối với qua là việc rất bình thường. Qua chỉ thương sinh linh thống khổ…”

  

Thấy tôi mãi trầm ngâm khi nhìn vào thân xác của Cương, Cụ nói:

-“Cương nó đã bỏ qua nó đi rồi, qua chỉ tiếc nó cũng như em, tuổi còn trẻ tương lai còn dài, tình hình ngày hôm nay rồi đây nó cũng phải thay đổi, cái gì mất lòng dân thì sẽ không tồn tạị được…”

Ngừng một lát Cụ nói tiếp:

-“Đáng lý ra chúng ta thống nhất đất nước từ Nam ra Bắc, chứ không phải từ Bắc vào Nam, nhưng vận nước không như mình mong ước được. Nước mình chiến tranh đã dài nhưng khi chấm dứt, trời đã khiến dân tộc nầy còn tiếp tục khổ đau, bản thân qua không tiếc, chỉ thương cho dân mình. Em đừng làm như Cương, em hãy can đảm lên nha em…”

Cụ ngừng một lát rồi Cụ nói tiếp:

-“Con đường em đi sau nầy sẽ rất chông gai, dân tộc nào còn nằm trong chế độ cộng sản thì còn đau khổ, nhưng chế độ cộng sản nào rồi cũng sụp đổ vì sẽ không còn thích hợp sau nầy. Tương lai dân tộc mình rồi cũng có ngày tốt đẹp, vậy em hãy can đảm đi trong con đường sắp tới đừng ngã lòng trước nghịch cảnh như Cương”.

 

…Đối với quân đội, Cụ luôn luôn quan tâm đến những khó khăn mà anh em quân nhân đang sống và theo dõi rất sát tình hình chiến sự. Có lần đích thân tôi được giao nhiệm vụ mang một số quà của Cụ trao cho các cô nhi quả phụ tại sư đoàn 5 bộ binh nhân ngày kỷ niệm 10 năm thành lập Sư Đoàn 5 Bộ Binh, lúc ấy Chuẩn Tướng Trần Quốc Lịch là tư lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh tại Lai Khê.

Rồi, khi được tin Tướng Đỗ Cao Trí bị tử nạn trực thăng, Cụ không cầm được nước mắt, Cụ nói:

-“ Việt Nam Cộng Hòa vừa mất đi một tướng tài trong tình thế nghiêm trọng của đất nước trước sự xâm nhập từ miền Bắc của địch quân.”

Tôi nhớ đại úy Cương đã nói với tôi:

-“ Khi nghe tin ông Tướng Trí chết bất ngờ, khi Quân Đoàn 3 đang mở cuộc hành quân vây hãm cộng quân khi chúng dùng lãnh thổ Lào và Campuchia xâm nhập miền Nam, ông Già khóc và buồn lắm.”

Ngoài việc bận tâm trong công việc lãnh đạo đất nước, hiểu rõ chiến tranh là tàn bạo và đời sống binh sĩ còn nhiều khó khăn, Cụ Hương còn một tấm lòng nhân ái đến những người bất hạnh trong xã hội. Cụ rất quan tâm đến những người bị bệnh phong cùi tại trại cùi Di Linh, Cụ hiểu rõ đến công sức của những người tận tụy phục vụ những người bị bệnh nầy. Điển hình là công đức và lòng bác ái của Đức cha Jean Cassaigne, một người cả một cuộc đời dành trọn sự thương yêu đối với những người mang bệnh phong cùi tại trại nầy. Cụ Hương đã đề cử hai nhân viên cao cấp đến trao tặng một huy chương cao quý của chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa cho đức cha Jean Casaigne vào ngày 12-4-1973

Khi chấp nhận ở lại đất nước, Cụ hiểu rất rõ các đòn trả thù của cộng sản vào thành phần quân, cán, chính nên Việt Nam Cộng Hòa. Cụ đã thẳng thắng từ chối nhận quyền công dân khi chính quyền cộng sản Việt Nam dự định trao lại cho Cụ như là một hình thức tuyên truyền, Cụ từ chối và nói trong bức thư đến cấp lãnh đạo cộng sản Việt Nam như sau:

-“ Hiện nay vẫn còn hàng trăm ngàn nhân viên chế độ cũ, cả văn lẫn võ, từ Phó Thủ Tướng đến tổng, bộ trưởng, các tướng lãnh, quân nhân, công chức các cấp, các chánh trị gia, các vị lãnh đạo tôn giáo, đảng phái, đang bị tập trung trong các trại cải tạo, rĩ tai ngắn hạn mà cho đến nay vẫn chưa thấy về. Tôi là người đứng đầu hàng lãnh đạo chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa, xin lãnh hết trách nhiệm một mình. Tôi xin chính phủ mới, hãy thả họ về hết, vì họ là những người chỉ biết thứa hành mệnh lệnh cấp trên, họ không có tội gì cả. Chừng nào những người tập trung cải tạo được về hết, chừng nào họ nhận được đầy đủ quyền công dân, chừng đó, tôi sẽ là người cuối cùng sau họ, nhận quyền công dân cho cá nhân tôi”.

Cuộc đời của Cụ Hương, từ một nhà mô phạm vấn thân vào các cương vị lảnh đạo, từ hai lần làm Đô Trưởng Saigon, hai lần làm Thủ Tướng, một lần trong chức vụ Thượng Nghị Sĩ, làm Phó Tổng Thống và trong giai đoạn cuối cùng của đất nước làm Tổng Thống, Cụ Hương đã thể hiện một ý chí kiên quyết, một tấm lòng sắt son, thủy chung với đất nước và dân tộc. Cụ đã thể hiện như một kẻ sĩ với đầy đũ ý nghỉa với đức tính thanh liêm, thương dân, yêu nước mà tới bây giờ khó có ai làm được.

Nay thì Cụ đã không còn, nhưng lúc nào tấm gương trong sáng của một kẻ sĩ suốt đời tận tụy với dân với nước, sống thanh bần, liêm chính trong mọi hoàn cảnh.Tấm gương của Cụ về lòng yêu nước thương dân, đức độ của Cụ làm cho những người từng làm việc với Cụ ngưỡng mộ. Cụ đã ra đi vào ngày vào ngày 27-1-1982 năm Nhâm Tuất.

 Trong niềm thương tiếc Cụ Trần Văn Hương, hàng năm, chúng tôi, những quân nhân một thời làm việc tại phủ phó Tổng thống thường tập trung tại nhà của Đại úy Nguyễn Văn Nhựt, một sĩ quan tùy viên luôn luôn cận kề bên Cụ trong mọi hoàn cảnh. Đại uý Nhựt thờ Cụ trên bàn thờ của gia đình và thương yêu Cụ như chính là thân phụ của mình.


CCVN 5

 Tran Van Huong từ chức. Cùng năm, ông đưa tướng Đỗ Cao Trí về làm Tư Lệnh Vùng III. Tháng 7-1970 ông ban hành một sắc lệnh, thay đổi cơ cấu quân sự trong tương quan giữa Bộ Tổng Tham Mưu và Quân Đoàn/Quân Khu. Nói một cách khác, đến cuối năm 1970, các tướng lãnh đã “vào hàng” theo lệnh TTT. Nhưng để bảo vệ quyền lực và phòng hờ những biến động có thể xảy ra, TTT tập trung quyền lực trong tay — về hành chánh cũng như về quân sự — hành động này đã gây những phẫn nộ ngấm ngầm trong giới quân đội. Sự lo sợ đảo chánh khiến cho TTT giữ lại một số tướng lãnh lẽ ra ông phải cho họ giải ngũ từ lâu. Cũng vì sợ đảo chánh, ông có những liên hệ với một số tướng lãnh mà qua sự quan sát bên ngoài, không hợp với quân phong, quân kỷ (22).  Rất nhiều thí dụ cho thấy TTT bất cần hệ thống quân giai và chỉ huy quân đội thẳng từ Dinh Độc Lập: Trong cao điểm của cuộc hành quân Lam Sơn 719, Trung Tướng Lãm xin được từ chức vì ông không đủ quyền lực và sự ủng hộ của TTT để ra lệnh cho hai tướng Dư Quốc Đống và Lê Nguyên Khang. Cũng trong buổi họp đó, tướng Viên một lần nữa xin từ chức.

 

 

 

 

Nhưng TTT không hành động. Không phải TTT có “vấn đề” khi cho hai vị tướng này giải ngũ; nhưng ông thấy khó tìm những sĩ quan khác trung thành với ông, để thay vào chỗ của hai vị tướng này. Một thí dụ khác là khi ông ra quân lệnh bắt giữ Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai trong khi Quảng Trị thất thủ tháng 5-1972. Thay vì chỉ cần “đề nghị” với Tổng Tham Mưu Trưởng, hay Tư Lệnh Vùng truy tố tướng Giai theo đúng tinh thần của hệ thống quân giai, ông Thiệu đích thân ra quân lệnh từ Phủ Tổng Thống (xem phóng ảnh 5-1). Lối xử dụng quyền hạn như vậy gây nhiều bất mãn trong quân đội — một tổ chức chỉ trường tồn trong hệ thống quân giai nghiêm ngặt. (23)

     Trong hai năm sau cùng của VNCH, quyền chỉ huy quân đội càng lúc càng bị thu gọn vào Dinh Độc Lập. Quân đội VNCH bị thất thế trước lối chống cộng mãnh liệt và quyết tâm của TTT: ông khăng khăng đòi hỏi quân đội — một quân đội càng ngày càng yếu vì thiếu viện trợ — phải triệt để bảo vệ Chủ Trương Bốn Không mà ông đã đề ra vài năm trước. Một trong bốn không này là “không nhượng đất” cho cộng sản. Nhưng với số quân viện càng ngày càng ít hơn, khả năng cơ động của quân lực không còn nữa. Phí tổn để bảo vệ những tiền đồn ở xa trở nên quá tốn kém. Nhưng tổng thống Thiệu vẫn quyết liệt với chủ trương không nhượng đất — dù những phần đất không có một lợi ích gì về chiến thuật hay chiến lược.


Khi VNCH mất Phước Long vào cuối năm 1974, tổng thống Thiệu có thay đổi đôi chút chủ trương không nhượng đất của ông. Nhưng đến lúc đó thì quá trễ. Tháng 3-1975, sau khi CSVN chiếm Ban Mê Thuột, chỉ trong ba tuần tổng thống Thiệu đơn thân quyết định một số kế hoạch quân sự chiến lược vô cùng tai hại, để đưa đến sự thất thủ hoàn toàn của VNCH hơn một tháng sau.

Sau khi Đà Nẵng thất thủ vào cuối tháng 3, và ngay ngày ba sư đoàn CSBV đánh vào Xuân Lộc, Đại Tướng Viên có làm một phiếu đệ trình lên TTT, xin phép thành lập một Quân Đoàn Dã Chiến, với thẩm quyền điều khiển hai quân chủng Không Quân và Hải Quân. Người viết không tìm được sử liệu cho biết phản ứng của TTT về phiếu đệ trình của tướng Viên. Nhưng đến ngày 12 tháng 4 mà tướng Viên mới đề nghị như vậy thì quá trễ. Điều này cho chúng ta thấy: (a) Bộ Tổng Tham Mưu VNCH không có thẩm quyền như danh xưng, và (b) TTT thật sự điều khiển Quân Lực VNCH thẳng từ quyền lực tổng thống, bất chấp hệ thống quân giai. Một trong hai — hay cả hai — sự kiện đó có thể là những yếu tố đưa đến sự thất thủ của VNCH./

NGUYỄN KỲ PHONG


CCVN 2

 Nhưng chính sách "tài sản căn bản" Đệ I Cộng Hoà, đưa con người và xã hội hậu-thuộc-địa Việt Nam tiến dần tự túc tự cường về mọi mặt lại không được các nhà làm chính sách Hoa Kỳ đón nhận. Báo chí và các cơ quan truyền thông Mỹ đã được lệnh mở một chiến dịch đánh phá việc xây dựng quốc sách Ấp Chiến Lược. Họ nhất định phá hỏng nỗ lực tiến đến độc lập tự chủ của các nhà lãnh-đạo nền Đệ Nhất Cộng Hòa vì Ấp Chiến Lược là một hệ thống chính trị, kinh tế và xã hội hoàn toàn tự túc *. Lý do của họ không phải là vô căn cứ. Nêu quốc sách Ấp Chiến Lược được hoàn thành trên toàn lãnh thổ miền Nam, hệ thống thôn ấp này sẽ là một bảo đảm chắc chắn cho Độc Lập và Tự Do căn bản của dân chúng. Người Mỹ sẽ gặp khó khăn khi muốn xen vào nội bộ của Nam Việt Nam.

Cho nên khi ông Ngô Đình Diệm chết đi, thời của nền Đệ I Cộng Hòa cũng qua đi. Một xã hội độc lập tự do và hạnh phúc cũng biến mất. Miền Nam lại một lần nữa rơi vào vòng lệ thuộc Hoa Kỳ mở đường cho thảm kịch 30 tháng 4 năm 1975. *25.  Cựu Giám Đốc CIA William Colby khi nhìn lại CTVN đã tin rằng lịch sử có thể được viết lại: "Nếu để ông Diệm sống, ông Diệm sẽ có khả năng củng cố và cải tổ quyền lực, sẽ tăng triển chiến lược thôn ấp cùng với những cán bộ từng cộng tác với chế độ của ông."

-"Đệ nhất Cộng Hòa Việt Nam, 1954-1963, Một cuộc cách mạng"[xx] quyển sách của tiến sĩ Phạm Văn Lưu và tiến sĩ Nguyễn Ngọc Tấn 229 trang, có 5 chương.

  -Nhận định của T/S Lâm Lễ Trinh về khí tiết của cố TT Ngô Đình Diệm trong ngững ngày cuối cùng của cuộc Đảo Chánh 11.11.1963 như sau;

- KHÍ TIẾT VÀ LÃNH ĐẠO "Tuyển tập Thức Tỉnh Quốc Gia và Cộng sản "Chương I,Lịch sử và chính trị trang 95-100 ,của G/S Lâm Lễ Trinh,Thủy Hoa Trang in năm 2007.

Lâm Lễ Trinh

Suốt 40 năm nay, mỗi khi ngày 1 tháng 11 trở lại, hình ảnh thảm sát Tổng thống Ngô Đình Diệm vẫn khơi dậy trong tâm thức quần chúng những âm vang chua xót nhưng đồng thời, cũng nhắc nhở những kinh nghiệm bổ ích cho cuộc đấu tranh tương lai.

Nhân dịp này, không nên phí thời giờ để tố giác, một cách tiêu cực, những sai lầm của Hoa kỳ, hành vi bội phản của các người đội lốt quốc gia và sự phá hoại của Cộng sản. Thật vậy, cho đến nay, vô số văn khố giải mật của chính quyền Mỹ, công trình nghiên cứu của các thức giả, những lời thú nhận của một số nhân chứng liên hệ và, đặc biệt, tình trạng khánh tận của xã hội chủ nghĩa đã và đang làm chuyện đó trước công luận quốc tế.


CCVN

Khoảng 10 giờ cùng ngày, đài phát thanh Sài Gòn loan một tin vắn tắt: “Anh em ông Diệm bị bắt tại Chợ Lớn, và đã tự tử”! Dư luận bàn tán xôn xao, phần đông nghi ngờ: Không tin anh em ông Diệm đã chết, và nhất là không tin anh em ông Diệm tự sát. Vì ai cũng biết: Cố Tổng Thống Diệm là một người ngoan đạo, mà đạo Thiên Chúa cấm tự sát. Phe đảo chánh không cho biết thêm tin tức nào về cái chết, trong khi báo chí thì không dám nói rằng anh em ông Diệm bị giết. Ngày 6 tháng 11 năm 1963, nhật báo New York Times in hình xác Tổng Thống Diệm bị còng tay với lời chú thích “Suicide with no hand” (tự sát không có tay) có ý mỉa mai lời thông báo của phe đảo chánh rằng anh em ông Diệm tự sát. Về sau, người ta có thể công khai nói rằng anh em cố Tổng Thống bị giết. Nhưng ai giết? Và ai ra lệnh giết? Đó là một nghi vấn cho đến nay vẫn chưa được hoàn toàn phơi bày ra ánh sáng. Thời gian như chiếc lá bay vèo. Mọi việc tưởng như mới xảy ra ngày hôm qua thế mà đã sáu năm. Vào thế kỷ trước khi tốc độ còn tính bằng chục cây số thì 6 năm qua là quãng thời gian quá ngắn chưa đủ một khoảng cách không gian cần và đủ để có thể phơi bày tất cả mọi sự thật về một biến cố lịch sử. Nhưng ngày nay, tốc độ tính bằng ngàn cây số, 6 năm là thời gian quá đủ để nói thật, nói hết về một biến cố lịch sử. Mỗi biến cố lịch sử có một giá trị riêng của nó, vào thời đại của nó. Mỗi giai đoạn lịch sử, cũng có một giá trị khác nhau. Chỉ riêng sự thật có giá trị muôn đời. Và cái gì là sự thật, phải trả về với sự thật. Viết về một giai đoạn cầm quyền suốt 9 năm của cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, không nhằm mục đích biện minh cho ai, hoặc kết tội ai, mà chỉ muốn nói lên một sự thật. Sự thực sẽ ghi tội và công trạng của những người có công. Người viết không dám làm việc của một sử gia, mà chỉ muốn góp phần nhỏ vào việc soi sáng cho một giai đoạn gay go của lịch sử, một giai đoạn đầy những biến chuyển và bí mật. Cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm không đơn giản như một vụ thanh toán chính trị và thoán đoạt quyền hành ở cấp lãnh đạo thượng tầng quốc gia. Cái chết của Ông đã biểu hiện trọn vẹn thân phận của người dân nhược tiểu Á Phi và gần hơn nữa, thân phận của một người Việt Nam yêu nước dù có phạm những lỗi lầm nào vẫn còn giữ được lòng tự ái quốc gia và cả danh dự của dân tộc. Trước hết, cái chết của ông dù cách nào cũng chỉ là kết quả của một lòng yêu nước và chỉ không chịu cúi đầu khuất phục trước những thế lực ngoại bang, nhằm khuynh đảo đất nước này và tạo ra những hoàn cảnh tan rã và mỗi ngày càng thêm tan rã.

Saturday, January 4, 2025

Theo đúng kịch bản, ngày 10/9/1947, Bollaert đọc diễn văn lần thứ hai tại Hà Ðông. Trong diễn văn này, Bollaert đưa ra khẩu hiệu mới: “Ðộc lập trong tương trợ [L'Indépendance dans l'interdépendance].” Mục đích chính không phải là hứa hẹn sẽ trao độc lập cho Việt Nam mà chỉ thỏa mãn đòi hỏi của người Việt bằng cách tạo một tiền lệ nhắc đến hai chữ “độc lập”–từ năm 1945, Pháp chưa hề nhắc đến hai chữ “quốc cấm” này, và chỉ có cặp Ramadier-Bollaert mới không sợ hãi chúng. Việc này sẽ chứng tỏ tinh thần “cấp tiến” của Paris.( 71) Những đề nghị của Bollaert cũng được cân nhắc sao cho HCM không thể chấp nhận được; và như thế, tạo lý do chính đáng để phát động chiến dịch mùa khô 1947 sắp tới nhằm cắt đứt trục tiếp vận của Việt Minh từ Hoa Nam, tiêu diệt lực lượng võ trang Việt Minh, và bắt sống HCM cùng những cán bộ lãnh đạo.( 72) Diễn văn của Bollaert cũng mở cửa cho Bảo Ðại. Mặc dù chẳng trọng vọng gì cựu hoàng, Pháp miễn cưỡng chấp nhận cho Bảo Ðại về nước cầm đầu một chính phủ thống nhất chống Cộng. Bollaert hy vọng rằng việc đả bại Việt Minh sẽ khiến Bảo Ðại bớt cứng rắn trong những điều kiện hợp tác.( 73) Ngày 18/9–tức 4 ngày sau cuộc biểu tình rầm rộ ở Sài Gòn mời Bảo Ðại về nước–Bảo Ðại ra tuyên cáo chấp nhận sự ủy thác của quốc dân và sẵn sàng thương thuyết. Ngày 20/9, cựu hoàng nói sẵn sàng gặp đại diện Pháp ở Hong Kong hay Ðông Dương. Theo Giám đốc Mật Thám Ðông Dương, Perrier, nói với Lãnh sự Mỹ tại Sài Gòn ngày 22/9, Bảo Ðại đã đồng ý thương thuyết, nhưng tạm trì hoãn để khỏi mang tiếng do Pháp dựng lên. Pháp chẳng kỳ vọng gì ở Bảo Ðại, chỉ mong Bảo Ðại sẽ có một số người ủng hộ. Sợ rằng Bảo Ðại khó lôi kéo số lớn người quốc gia trong hàng ngũ HCM. Vậy mà Bảo Ðại đòi hỏi độc lập rộng rãi hơn những gì Bollaert đã hứa.( 74) Ngày 29/9/1947, Lê Văn Hoạch từ chức. Hai ngày sau, 1/10, Nguyễn Văn Xuân–mới từ Pháp về ngày 15/9–được Hội Ðồng Tư Vấn Nam kỳ ủy thác lập chính phủ lâm thời. Một tuần sau, Xuân công bố danh sách chính phủ Lâm thời Nam Phần.( 75) Ðây là bước chủ yếu để trao quyền thống nhất lãnh thổ cho Bảo Ðại…….. VI. “LÊ GÓT NƠI QUÊ NGƯỜI”: Trong bài hát “Suy Tôn Ngô Tổng Thống,” để tô hồng cho thành tích cách mạng của Ngô Ðình Diệm, nhà văn Thanh Nam viết: “Ai bao năm từng lê gót nơi quê người, cứu đất nước, v.. v...” Thực tế, chuyến ra ngoại quốc của Ngô Ðình Diệm chẳng có vẻ gì phiêu lưu, gian khổ. Trước hết, qua Mỹ, được gặp gỡ những nhân vật quyền thế; rồi qua Vatican gặp Giáo hoàng Pius XII; trở lại Mỹ, tu học ở các tu viện và diễn thuyết đó đây; và cuối cùng qua Belgium, vận động làm Thủ tướng. A. QUA MỸ XIN VIỆN TRỢ: