Tuesday, December 15, 2009

Toàn văn :Hiến Pháp Đệ Nhất và Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hoà

Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa 1956http://vi.wikisource.org/wiki/Hi%E1%BA%BFn_ph%C3%A1p_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a_1956

http://hienphap.com/wp-content/uploads/2008/04/hpvnch1956.pdf Hien Phap De Nhat CH 1956 PDF
Gồm có 10 chương và 98 điều khoản.

Văn thư lưu trữ mở Wikisource
Bước tới: chuyển hướng, tìm kiếm
←Wikisource:Văn kiện lập hiến Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa 1956
của Quốc hội Việt Nam Cộng hòa, năm 1956
QUỐC HỘI LẬP HIẾN Chung quyết trong phiên họp ngày 20 tháng 10 năm 1956




Mục lục [ẩn]
1 LỜI MỞ ĐẦU
2 THIÊN THỨ NHẤT: Điều khoản căn bản
2.1 Điều 1
2.2 Điều 2
2.3 Điều 3
2.4 Điều 4
2.5 Điều 5
2.6 Điều 6
2.7 Điều 7
2.8 Điều 8
3 THIÊN THỨ HAI: Quyền lợi và nhiệm vụ người Dân
3.1 Điều 9
3.2 Điều 10
3.3 Điều 11
3.4 Điều 12
3.5 Điều 13
3.6 Điều 14
3.7 Điều 15
3.8 Điều 16
3.9 Điều 17
3.10 Điều 18
3.11 Điều 19
3.12 Điều 20

[sửa] LỜI MỞ ĐẦU
Tin tưởng ở tương lai huy hoàng bất diệt của Quốc gia và Dân tộc Việt Nam mà lịch sử tranh đấu oai hùng của tổ tiên và ý chí quật cường của toàn dân đảm bảo;
Tin tưởng ở sự trường tồn của nền văn minh Việt Nam căn cứ trên nền tảng duy linh mà toàn dân đều có nhiệm vụ phát huy;
Tin tưởng ở giá trị siêu việt của con người mà sự phát triển tự do, điều hòa và đầy đủ trong cương vị cá nhân cũng như trong đời sống tập thể phải là mục đích của mọi hoạt động Quốc gia;
Chúng tôi, Dân biểu Quốc hội Lập hiến:
Ý thức rằng Hiến pháp phải thực hiện nguyện vọng của nhân dân, từ Mũi Cà Mâu đến Ải Nam Quan;
Nguyện vọng ấy là:
Củng cố Độc lập chống mọi hình thức xâm lăng thống trị;
Bảo vệ tự do cho mỗi người và cho dân tộc;
Xây dựng dân chủ về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa cho toàn dân trong sự tôn trọng nhân vị;
Ý thức rằng quyền hưởng tự do chỉ được bảo toàn khi năng lực phục tùng lý trí và đạo đức, khi nền an ninh tập thể được bảo vệ và những quyền chính đáng của con người được tôn trọng;
Ý thức rằng nước ta ở trên con đường giao thông và di dân quốc tế, dân tộc ta sẵn sàng tiếp nhận các trào lưu tư tưởng tiến bộ để hoàn thành sứ mạng trước đấng Tạo hóa và trước nhân loại là xây dựng một nền văn minh nhân bản bảo vệ phát triển con người toàn diện.
Sau khi thảo luận, chấp nhận bản Hiến pháp sau đây:



[sửa] THIÊN THỨ NHẤT: Điều khoản căn bản
[sửa] Điều 1
Việt Nam là một nước Cộng hòa, độc lập, Thống nhất, lãnh thổ bất khả phân.
[sửa] Điều 2
Chủ quyền thuộc về toàn dân.
[sửa] Điều 3
Quốc dân ủy nhiệm vụ hành pháp cho Tổng thống dân cử, và nhiệm vụ lập pháp cho Quốc hội cũng do dân cử.
Sự phân nhiệm giữa hành pháp và lập pháp phải rõ rệt. Hoạt động của các cơ quan hành pháp và lập pháp phải được điều hòa.
Tổng thống lãnh đạo Quốc dân.
[sửa] Điều 4
Hành pháp, lập pháp, tư pháp có nhiệm vụ bảo vệ Tự do, Dân chủ, chính thể cộng hòa, và trật tự công cộng. Tư pháp phải có một quy chế bảo đảm tính cách độc lập.
[sửa] Điều 5
Mọi người dân không phân biệt nam nữ sinh ra bình đẳng về phẩm cách, quyền lợi, và nhiệm vụ, và phải đối xử với nhau theo tinh thần tương thân tương trợ.
Quốc gia công nhận và bảo đảm những quyền căn bản của con người trong cương vị cá nhân, hay trong cương vị tập thể.
Quốc gia cố gắng tạo cho mọi người những cơ hội đồng đều và những điều kiện cần thiết để thụ hưởng quyền lợi và thực hành nhiệm vụ.
Quốc gia tán trợ sự khuếch trương kinh tế, phát huy văn hóa, khai triển khoa học và kỹ thuật.
[sửa] Điều 6
Người dân có những nhiệm vụ đối với tổ quốc, với đồng bào, mục đích là để thực hiện sự phát triển điều hòa và đầy đủ nhân cách của mọi người.
[sửa] Điều 7
Những hành vi có mục đích phổ biến hoặc thực hiện một cách trực tiếp hay gián tiếp chủ nghĩa cộng sản dưới mọi hình thái đều trái với các nguyên tắc ghi trong Hiến pháp.
[sửa] Điều 8
Nước Việt Nam Cộng hòa chấp nhận những nguyên tắc quốc tế pháp không trái với sự thực hiện chủ quyền Quốc gia và sự bình đẳng giữa các dân tộc.
Quốc gia cố gắng góp phần xây dựng và bảo vệ nền an ninh và hòa bình quốc tế cùng duy trì và phát triển sự liên lạc thân hữu giữa các dân tộc trên căn bản tự do và bình đẳng.
[sửa] THIÊN THỨ HAI: Quyền lợi và nhiệm vụ người Dân
[sửa] Điều 9
Mọi người dân đều có quyền sinh sống tự do và an toàn.
[sửa] Điều 10
Không ai có thể bị bắt bớ, giam giữ tù đày, một cách trái phép.
Trừ trường hợp phạm pháp quả tang, chỉ có thể bắt giam khi có câu phiếu của cơ quan có thẩm quyền, trong trường hợp và theo hình thức luật định. Theo thể thức luật định các bị can về tội đại hình hoặc tiểu hình có quyền lựa chọn hoặc yêu cầu chỉ định người biện minh cho mình.
[sửa] Điều 11
Không ai có thể bị tra tấn hoặc chịu những hình phạt hay những cách đối xử tàn bạo, bất nhân, hoặc làm mất phẩm cách.
[sửa] Điều 12
Đời tư, gia đình, nhà cửa, phẩm giá, và thanh danh của mọi người dân phải được tôn trọng.
Tánh cách riêng tư của thư tín không thể bị xâm phạm, trừ khi có lệnh của Tòa án hoặc khi bảo vệ an ninh công cộng hay duy trì trật tự chung.
Ai cũng có quyền được luật pháp bảo vệ chống lại những đe dọa hoặc xâm phạm trái phép.
[sửa] Điều 13
Mọi người dân có quyền tự do đi lại và cư trú trên lãnh thổ Quốc gia, ngoại trừ trường hợp luật pháp ngăn câm vì duyên cơ vệ sinh hay an ninh công cộng.
Mọi người dân có quyền tự do xuất ngoại trừ trường hợp luật pháp hạn chế vì lý do anh ninh quốc phòng, kinh tế, tài chánh hay lợi ích công cộng.
[sửa] Điều 14
Mọi người dân đều có quyền và có bổn phận làm việc. Việc làm như nhau, tiền công bằng nhau.
Người làm việc có quyền hưởng thù lao xứng đáng đủ để bảo đảm cho bản thân và cho gia đình một đời sống hợp với nhân phẩm.
[sửa] Điều 15
Mọi người dân đều có quyền tự do tư tưởng và trong khuôn khổ luật định, có quyền tự do hội họp và lập hội.
[sửa] Điều 16
Mọi người dân có quyền tự do ngôn luận. Quyền này không dược dùng để vu cáo, phỉ báng, xâm phạm đến nền đạo lý công cộng, hô hào nổi loạn, hoặc lật đổ chính thể Cộng hòa.
Mọi người dân đều được hưởng quyền tự do báo chí để tạo thành một dư luận xác thực và xây dựng mà Quốc gia có nhiệm vụ bảo vệ chống lại mọi hành vi xuyên tạc sự thực.
[sửa] Điều 17
Mọi người dân đều có quyền tự do tín ngưỡng, tự do hành giáo, và tự do truyền giáo, miễn là sử dụng quyền ấy không trái với luân lý và thuần phong mỹ tục.
[sửa] Điều 18
Theo thể thức và điều kiện luật định, mọi người dân đều có quyền bầu cử, ứng cử, tham gia điều khiển việc công hoặc trực tiếp, hoặc do những đại diện của mình.
[sửa] Điều 19
Mọi người dân đều có quyền tham gia công vụ tùy theo năng lực trên căn bản bình đẳng.
[sửa] Điều 20
Quốc gia công nhận và bảo đảm quyền tư hữu. Luật pháp ấn định thể thức thủ đắc và hưởng thụ để ai ai cũng có thể trở thành sở hữu chủ và để bảo đảm cho con người đời sống xứng đáng và tự do, đồng thời xây dựng nền thịnh vượng xã hội.
Trong những trường hợp luật định và vợi điều kiện có bồi thường, Quốc gia có thể trưng thu tài sản vì công ích.
Văn kiện này còn đang soạn thảo hoặc đang bổ sung. Bạn có thể viết bổ sung. (Xin xem phần trợ giúp để biết thêm về cách viết bổ sung văn kiện.)
Lấy từ “http://vi.wikisource.org/wiki/Hi%E1%BA%BFn_ph%C3%A1p_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a_1956”
←Wikisource:Văn kiện lập hiến


Tài liệu dạng PDF có 10 thiên ,98 điều khoản
http://www.esnips.com/doc/f5da9b85-c634-444a-b736-9250ea061d68/Hienphap_vnch1956_vn HPVNCH 1956 Tieng Viet
http://www.scribd.com/doc/11942726/Hin-Phap-VNCH-1956 HP Đệ Nhất CH 1956 tieng Anh cũng có 10 thiên và 98 điều



Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa 1967
http://vi.wikisource.org/wiki/Hi%E1%BA%BFn_ph%C3%A1p_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_H%C3%B2a_1967
Văn thư lưu trữ mở Wikisource
(đổi hướng từ Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa 1967)
Bước tới: chuyển hướng, tìm kiếm
Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa 1967 gồm 9 chương ,117 điều
của Quốc hội Lập hiến Việt Nam Cộng hòa, năm 1967
QUỐC HỘI LẬP HIẾN Chung quyết trong phiên họp ngày 18 tháng 3 năm 1967




Mục lục [ẩn]
1 LỜI MỞ ĐẦU
2 CHƯƠNG I: Điều khoản căn bản
2.1 ĐIỀU 1
2.2 ĐIỀU 2
2.3 ĐIỀU 3
2.4 ĐIỀU 4
2.5 ĐIỀU 5
3 CHƯƠNG II: Quyền lợi và Nghĩa vụ công dân
3.1 ĐIỀU 6
3.2 ĐIỀU 7
3.3 ĐIỀU 8
3.4 ĐIỀU 9
3.5 ĐIỀU 10
3.6 ĐIỀU 11
3.7 ĐIỀU 12
3.8 ĐIỀU 13
3.9 ĐIỀU 14
3.10 ĐIỀU 15
3.11 ĐIỀU 16
3.12 ĐIỀU 17
3.13 ĐIỀU 18
3.14 ĐIỀU 19
3.15 ĐIỀU 20
3.16 ĐIỀU 21
3.17 ĐIỀU 22
3.18 ĐIỀU 23
3.19 ĐIỀU 24
3.20 ĐIỀU 25
3.21 ĐIỀU 26
3.22 ĐIỀU 27
3.23 ĐIỀU 28
3.24 ĐIỀU 29
4 CHƯƠNG III: Lập Pháp
4.1 ĐIỀU 30
4.2 ĐIỀU 31
4.3 ĐIỀU 32
4.4 ĐIỀU 33
4.5 ĐIỀU 34
4.6 ĐIỀU 35
4.7 ĐIỀU 36
4.8 ĐIỀU 37
4.9 ĐIỀU 38
4.10 ĐIỀU 39
4.11 ĐIỀU 40
4.12 ĐIỀU 41
4.13 ĐIỀU 42
4.14 ĐIỀU 43
4.15 ĐIỀU 44
4.16 ĐIỀU 45
4.17 ĐIỀU 46
4.18 ĐIỀU 47
4.19 ĐIỀU 48
4.20 ĐIỀU 49
4.21 ĐIỀU 50
5 CHƯƠNG IV: Hành Pháp
5.1 ĐIỀU 51
5.2 ĐIỀU 52
5.3 ĐIỀU 53
5.4 ĐIỀU 54
5.5 ĐIỀU 55
5.6 ĐIỀU 56
5.7 ĐIỀU 57
5.8 ĐIỀU 58
5.9 ĐIỀU 59
5.10 ĐIỀU 60
5.11 ĐIỀU 61
5.12 ĐIỀU 62
5.13 ĐIỀU 63
5.14 ĐIỀU 64
5.15 ĐIỀU 65
5.16 ĐIỀU 66
5.17 ĐIỀU 67
5.18 ĐIỀU 68
5.19 ĐIỀU 69
5.20 ĐIỀU 70
5.21 ĐIỀU 71
5.22 ĐIỀU 72
5.23 ĐIỀU 74
5.24 ĐIỀU 75
6 CHƯƠNG V: Tư Pháp
6.1 ĐIỀU 76
6.2 ĐIỀU 77
6.3 ĐIỀU 78
6.4 ĐIỀU 79
6.5 ĐIỀU 80
6.6 ĐIỀU 81
6.7 ĐIỀU 82
6.8 ĐIỀU 83
6.9 ĐIỀU 84
7 CHƯƠNG VI: Các Định Chế Đặc Biệt
7.1 ĐIỀU 85
7.2 ĐIỀU 86
7.3 ĐIỀU 87
7.4 ĐIỀU 88
7.5 ĐIỀU 89
7.6 ĐIỀU 90
7.7 ĐIỀU 91
7.8 ĐIỀU 92
7.9 ĐIỀU 93
7.10 ĐIỀU 94
7.11 ĐIỀU 95
7.12 ĐIỀU 96
7.13 ĐIỀU 97
7.14 ĐIỀU 98
8 CHƯƠNG VII: Chính Đảng và Đối Lập
8.1 ĐIỀU 99
8.2 ĐIỀU 100
8.3 ĐIỀU 101
8.4 ĐIỀU 102
9 CHƯƠNG VIII: Tu Chính Hiến Pháp
9.1 ĐIỀU 103
9.2 ĐIỀU 104
9.3 ĐIỀU 105
9.4 ĐIỀU 106
9.5 ĐIỀU 107
10 CHƯƠNG IX: Điều khoản Chuyển Tiếp
10.1 ĐIỀU 108
10.2 ĐIỀU 109
10.3 ĐIỀU 110
10.4 ĐIỀU 111
10.5 ĐIỀU 112
10.6 ĐIỀU 113
10.7 ĐIỀU 114
10.8 ĐIỀU 115
10.9 ĐIỀU 116
10.10 ĐIỀU 117

[sửa] LỜI MỞ ĐẦU
Tin tưởng rằng lòng ái quốc, chí quật cường, truyền thống đấu tranh của dân tộc bảo đảm tương lai huy hoàng của đất nước.
Ý thức rằng sau bao năm ngoại thuộc, kế đến lãnh thổ qua phân, độc tài và chiến tranh, dân tộc Việt Nam phải lãnh lấy sứ mạng lịch sử, tiếp nối ý chí tự cường, đồng thời đón nhận những tư tưởng tiến bộ để thiết lập một chánh thể Cộng Hòa của dân, do dân và vì dân, nhằm mục đích đoàn kết dân tộc, thống nhất lãnh thổ, bảo đảm Độc Lập Tự Do Dân Chủ trong công bằng, bác ái cho các thế hệ hiện tại và mai sau.
Chúng tôi một trăm mười bảy (117) Dân Biểu Quốc Hội Lập Hiến đại diện nhân dân Việt Nam, sau khi thảo luận, chấp thuận Bản Hiến Pháp sau đây :



[sửa] CHƯƠNG I: Điều khoản căn bản
[sửa] ĐIỀU 1
1- VIỆT NAM là một nước CỘNG HÒA, độc lập, thống nhất, lãnh thổ bất khả phân.
[sửa] ĐIỀU 2
1- Quốc gia công nhận và bảo đảm những quyền căn bản của mọi công dân
2- Quốc Gia chủ trương sự bình đẳng giữa các công dân không phân biệt nam nữ, tôn giáo, sắc tộc, đảng phái. Đồng bào thiểu số được đặc biệt nâng đỡ để theo kịp đà tiến hóa chung của dân tộc.
3- Mọi công dân có nghĩa vụ góp phần phục vụ quyền lợi quốc gia dân tộc.
[sửa] ĐIỀU 3
Ba cơ quan Lập Pháp, Hành Pháp và Tư Pháp phải được phân nhiệm và phân quyền rõ rệt. Sự hoạt động của ba cơ quan công quyền phải được phối hợp và điều hòa để thực hiện trật tự xã hội và thịnh vượng chung trên căn bản Tự Do, Dân Chủ và Công Bằng Xã Hội.
[sửa] ĐIỀU 4
1- Việt Nam Cộng Hòa chống lại chủ nghĩa cộng sản dưới mọi hình thức
2- Mọi hành vi nhằm mục đích tuyên truyền hay thực hiện chủ nghĩa cộng sản đều bị cấm chỉ.
[sửa] ĐIỀU 5
1- Việt Nam Cộng Hòa chấp nhận các nguyên tắc quốc tế pháp không trái với chủ quyền quốc gia và sự bình đẳng giữa các dân tộc.
2- Việt Nam Cộng Hòa cương quyết chống lại mọi hình thức xâm lược và nỗ lực góp phần xây dựng nền an ninh và hòa bình thế giới.
[sửa] CHƯƠNG II: Quyền lợi và Nghĩa vụ công dân
[sửa] ĐIỀU 6
1- Quốc Gia tôn trọng nhân phẩm.
2- Luật pháp bảo vệ tự do, sinh mạng, tài sản và danh dự của mọi công dân.
[sửa] ĐIỀU 7
1- Quốc Gia tôn trọng và bảo vệ quyền an toàn cá nhân và quyền biện hộ.
2- Không ai có thể bị bắt bớ, giam giữ nếu không có mệnh lệnh hợp pháp của cơ quan có thẩm quyền luật định, ngoại trừ trường hợp quả tang phạm pháp.
3- Bị can và thân nhân phải được thông báo tội trạng trong thời hạn luật định. Mọi sự câu lưu phải đặt dưới quyền kiểm soát của cơ quan Tư Pháp.
4- Không ai có thể bị tra tấn, đe dọa hay cưỡng bách thú tội. Sự nhận tội vì tra tấn, đe dọa hay cưỡng bách không được coi là bằng chứng buộc tội.
5- Bị can phải được xét xử công khai và mau chóng.
6- Bị can có quyền được luật sư biện hộ dự kiến trong mọi giai đoạn thẩm vấn kể cả trong cuộc điều tra sơ vấn.
7- Bị can về các tội Tiểu Hình, chưa có tiền án quá ba (3) tháng tù về các tội phạm cố ý, có thể được tại ngoại hầu tra nếu có nghề nghiệp và địa chỉ chắc chắn. Nữ bị can về các tội tiểu hình, có nghề nghiệp và địa chỉ chắc chắn, nếu có thai trên ba (3) tháng.
8- Bị can được suy đoán là vô tội cho đến khi bản án xác nhận tội trạng trở thành nhất định.
Sự nghi vấn có lợi cho bị can.
9- Bị can bị bắt giữ oan ức, sau khi được tuyên bố vô tội, có quyền đòi Quốc Gia bồi thường thiệt hại trong những điều kiện luật định.
10- Không ai có thể bị câu thúc thân thể vì thiếu nợ.
[sửa] ĐIỀU 8
1- Đời tư, nhà cửa và thư tín của công dân phải được tôn trọng.
2- Không ai được quyền xâm nhập, khám xét nơi cư trú và tịch thâu đồ vật của người dân, trừ khi có lệnh của Tòa Án hoặc cần bảo vệ an ninh và trật tự công cộng trong phạm vi luật định.
3- Luật pháp bảo vệ tánh cách riêng tư của thư tín, những hạn chế, nếu có phải do một (1) đạo luật qui định.
[sửa] ĐIỀU 9
1- Quốc Gia tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tự do truyền giáo và hành đạo của mọi công dân miễn là không xâm phạm đến quyền lợi quốc gia, không phương hại đến an ninh, trật tự công cộng và không trái với thuần phong mỹ tục.
2- Quốc Gia không thừa nhận một tôn giáo nào là Quốc Giáo. Quốc Gia vô tư đối với sự phát triển của các tôn giáo.
[sửa] ĐIỀU 10
1- Quốc Gia công nhận quyền tự do giáo dục.
2- Nền giáo dục cơ bản có tính cách cưỡng bách và miễn phí.
3- Nền giáo dục Đại Học được tự trị.
4- Những người có khả năng mà không có phương tiện sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn.
5- Quốc Gia khuyến khích và nâng đỡ các công dân trong việc nghiên cứu và sáng tác về khoa học, văn học và nghệ thuật.
[sửa] ĐIỀU 11
1- Văn hóa giáo dục phải được đặt vào hàng quốc sách trên căn bản dân tộc, khoa học và nhân bản.
2- Một ngân sách thích đáng phải được dành cho việc phát triển văn hóa giáo dục.
[sửa] ĐIỀU 12
1- Quốc Gia tôn trọng quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, báo chí và xuất bản, miễn là sự hành xử các quyền này không phương hại đến danh dự cá nhân, an ninh quốc phòng hay thuần phong mỹ tục.
2- Chế độ kiểm duyệt không được chấp nhận, ngoại trừ các bộ môn điện ảnh và kịch trường.
3- Một đạo luật sẽ ấn định qui chế báo chí.
[sửa] ĐIỀU 13
1- Mọi công dân đều có quyền tự do hội họp và lập hội trong phạm vi luật định.
2- Mọi công dân đều có quyền bầu cử , ứng cử và tham gia công vụ trên căn bản bình đẳng theo điều kiện và thể thức luật định.
3- Quốc Gia tôn trọng các quyền chính trị của mọi công dân kể cả quyền tự do thỉnh nguyện, quyền đối lập công khai bất bạo động và hợp pháp.
[sửa] ĐIỀU 14
Mọi công dân đều có quyền tự do cư trú, đi lại, xuất ngoại và hồi hương, ngoại trừ trường hợp luật pháp hạn chế vì lý do y tế, an ninh và quốc phòng.
[sửa] ĐIỀU 15
1- Mọi công dân đều có quyền, có bổn phận làm việc và được hưởng thù lao tương xứng để bảo đảm cho bản thân và gia đình một đời sống hợp với nhân phẩm.
2- Quốc Gia nỗ lực tạo công việc làm cho mọi công dân.
[sửa] ĐIỀU 16
Quyền tự do nghiệp đoàn và quyền đình công được tôn trọng trong phạm vi và thể thức luật định.
[sửa] ĐIỀU 17
1- Quốc Gia công nhận gia đình là nền tảng của xã hội. Quốc Gia khuyến khích, nâng đỡ sự thành lập gia đình, săn sóc sản phụ và thai nhi.
2- Hôn nhân được đặt căn bản trên sự ưng thuận, sự bình đẳng và sự hợp tác giữa vợ chồng.
3- Quốc Gia tán trợ sự thuần nhất gia đình.
[sửa] ĐIỀU 18
1- Quốc Gia nỗ lực thiết lập chế độ an ninh xã hội.
2- Quốc Gia có nhiệm vụ thiết lập chế độ cứu trợ xã hội và y tế công cộng.
3- Quốc Gia có nhiệm vụ nâng đỡ đời sống tinh thần và vật chất của các chiến sĩ quốc gia, bảo trợ và dưỡng dục các quốc gia nghĩa tử.
[sửa] ĐIỀU 19
1- Quốc Gia công nhận và bảo đảm quyền tư hữu.
2- Quốc Gia chủ trương hữu sản hóa nhân dân.
3- Sở hữu chủ các tài sản bị truất hữu hoặc trưng dụng vì lý do công ích phải được bồi thường nhanh chóng và thoả đáng theo thời giá.
[sửa] ĐIỀU 20
1- Quyền tự do kinh doanh và cạnh tranh được công nhận nhưng không được hành xử để nắm giữ độc quyền, độc chiếm hay thao túng thị trường.
2- Quốc Gia khuyến khích và tán trợ sự hợp tác kinh tế có tánh cách tương trợ.
3- Quốc Gia đặc biệt nâng đỡ những thành phần xã hội yếu kém về kinh tế.
[sửa] ĐIỀU 21
Quốc Gia chủ trương nâng cao đời sống nông dân và đặc biệt giúp đỡ nông dân có ruộng đất canh tác.
[sửa] ĐIỀU 22
Trên nguyên tắc quân bình giữa nghĩa vụ và quyền lợi, công nhân có quyền cử đại biểu tham gia quản trị xí nghiệp, đặc biệt về những vấn đề liên quan đến lương bổng và điều kiện làm việc trong phạm vi và thể thức luật định.
[sửa] ĐIỀU 23
1- Quân Nhân đắc cử vào các chức vụ dân cử, hay tham chánh tại cấp bậc trung ương phải được giải ngũ hay nghỉ giả hạn không lương, tùy theo sự lựa chọn của đương sự.
2- Quân Nhân tại ngũ không được sinh hoạt đảng phái.
[sửa] ĐIỀU 24
1- Quốc Gia công nhận sự hiện hữu của các sắc tộc thiểu số trong cộng đồng Việt Nam.
2- Quốc Gia tôn trọng phong tục tập quán của đồng bào thiểu số. Các tòa án phong tục phải được thiết lập để xét xử một số các vụ án phong tục giữa các đồng bào thiểu số.
3- Một đạo luật sẽ qui định những quyền lợi đặc biệt để nâng đỡ đồng bào thiểu số.
[sửa] ĐIỀU 25
Mọi công dân đều có nghĩa vụ bảo vệ Tổ Quốc và chánh thể Cộng Hòa.
[sửa] ĐIỀU 26
Mọi công dân đều có nghĩa vụ bảo vệ Hiến Pháp và tôn trọng luật pháp.
[sửa] ĐIỀU 27
Mọi công dân đều có nghĩa vụ thi hành quân dịch theo luật định.
[sửa] ĐIỀU 28
Mọi công dân đều có nghĩa vụ đóng thuế theo luật định.
[sửa] ĐIỀU 29
Mọi sự hạn chế các quyền công dân căn bản phải được qui định bởi một đạo luật có ấn định rõ phạm vi áp dụng trong thời gian và không gian. Tuy nhiên trong mọi trường hợp, tánh cách thiết yếu của các quyền công dân căn bản vẫn không được vi phạm.



[sửa] CHƯƠNG III: Lập Pháp
[sửa] ĐIỀU 30
Quyền Lập Pháp được quốc dân ủy nhiệm cho Quốc Hội.
Quốc Hội gồm hai viện :
- Hạ Nghị Viện
- Thượng Nghị Viện
[sửa] ĐIỀU 31
Hạ Nghị Viện gồm từ một trăm (100) đến hai trăm (200) Dân Biểu.
1- Dân Biểu được bầu theo lối phổ thông đầu phiếu trực tiếp và kín theo thể thức đơn danh, trong từng đơn vị lớn nhất là tỉnh.
2- Nhiệm kỳ Dân Biểu là bốn (4) năm. Dân Biểu có thể được tái cử.
3- Cuộc bầu cử tân Hạ Nghị Viện sẽ được kết thúc chậm nhất là một (1) tháng trước khi pháp nhiệm cũ chấm dứt.
[sửa] ĐIỀU 32
Được quyền ứng cử Dân Biểu những công dân :
1- Có Việt tịch từ khi mới sanh, hoặc đã nhập Việt tịch ít nhất bảy (7) năm, hoặc đã thủ đắc hoặc hồi phục Việt tịch ít nhất năm (5) năm tính đến ngày bầu cử.
2- Đủ hai mươi lăm (25) tuổi tính đến ngày bầu cử.
3- Được hưởng các quyền công dân.
4- Ở trong tình trạng hợp lệ quân dịch.
5- Hội đủ những điều kiện khác dự liệu trong đạo luật bầu cử Dân Biểu.
[sửa] ĐIỀU 33
Thượng Nghị Viện gồm từ ba mươi (30) đến sáu mươi (60) Nghị Sĩ.
1- Nghị Sĩ được cử tri đoàn toàn quốc bầu lên trong một cuộc phổ thông đầu phiếu trực tiếp và kín theo thể thức Liên Danh đa số. Mỗi Liên Danh gồm từ một phần sáu (1/6) đến một phần ba (1/3) tổng số Nghị Sĩ.
2- Nhiệm kỳ Nghị Sĩ là sáu (6) năm, mỗi ba (3) năm bầu lại phân nửa (1/2). Nghị Sĩ có thể được tái cử.
3- Các Nghị Sĩ trong pháp nhiệm đầu tiên sẽ được chia làm hai nhóm đều nhau, theo thể thức rút thăm. Nhóm thứ nhất có nhiệm kỳ sáu (6) năm, nhóm thứ hai có nhiệm kỳ ba (3) năm.
4- Cuộc bầu cử các tân Nghị Sĩ phải được tổ chức chậm nhất là một (1) tháng trước khi phân nửa (1/2) tổng số Nghị Sĩ chấm dứt pháp nhiệm.
[sửa] ĐIỀU 34
Được quyền ứng cử Nghị Sĩ những công dân đủ ba mươi (30) tuổi tính đến ngày bầu cử, hội đủ các điều kiện dự liệu trong đạo luật bầu cử Nghị Sĩ và các điều kiện qui định ở Điều 32.
[sửa] ĐIỀU 35
1- Trong trường hợp khống khuyết Dân Biểu vì bất cứ nguyên nhân nào, cuộc bầu cử thay thế sẽ được tổ chức trong hạn ba (3) tháng, nếu sự khống khuyết xảy ra trên hai (2) năm trước ngày chấm dứt pháp nhiệm.
2- Trong trường hợp khống khuyết Nghị Sĩ vì bất cứ nguyên nhân nào, cuộc bầu cử thay thế sẽ được tổ chức chung với cuộc bầu cử phân nửa (1/2) tổng số Nghị Sĩ gần nhất.
[sửa] ĐIỀU 36
Các thể thức và điều kiện ứng cử, bầu cử Dân Biểu và Nghị Sĩ, kể cả Dân Biểu đồng bào Thiểu số, sẽ do những đạo luật quy định.
[sửa] ĐIỀU 37
1- Không thể truy tố, tầm nã, bắt giam hay xét xử một Dân Biểu hay Nghị Sĩ vì những sự phát biểu và biểu quyết tại Quốc Hội.
2- Trong suốt thời gian pháp nhiệm, ngoại trừ trường hợp quả tang phạm pháp, không thể truy tố, tầm nã, bắt giam hay xét xử một Dân Biểu hay Nghị Sĩ, nếu không có sự chấp thuận của ba phần tư (3/4) tổng số Dân Biểu hay Nghị Sĩ.
3- Trong trường hợp quả tang phạm pháp, sự truy tố hay bắt giam sẽ được đình chỉ nếu có sự yêu cầu của Viện sở quan.
4- Dân Biểu và Nghị Sĩ có quyền bảo mật về xuất xứ các tài liệu trình bày trước Quốc Hội.
5- Dân Biểu và Nghị Sĩ không thể kiêm nhiệm một chức vụ công cử hay dân cử nào khác.
6- Dân Biểu và Nghị Sĩ có thể phụ trách giảng huấn tại các trường đại học và cao đẳng kỹ thuật.
7- Dân Biểu, Nghị Sĩ và người hôn phối không thể tham dự những cuộc đấu thầu hay ký hợp đồng với các cơ quan công quyền.
[sửa] ĐIỀU 38
1- Trong trường hợp can tội phản quốc hay các trọng tội khác, Dân Biểu hay Nghị Sĩ có thể bị Viện sở quan truất quyền.
2- Sự truất quyền phải được hai phần ba (2/3) tổng số Dân Biểu hay Nghị Sĩ đề nghị.
3- Quyết định truất quyền phải được ba phần tư (3/4) tổng số Dân Biểu hay Nghị Sĩ chấp thuận.
4- Đương sự được quyền biện hộ trong mọi giai đoạn của thủ tục truất quyền.
[sửa] ĐIỀU 39
Quốc Hội có thẩm quyền :
1- Biểu quyết các đạo luật.
2- Phê chuẩn các hiệp ước và hiệp định quốc tế.
3- Quyết định việc tuyên chiến và nghị hòa.
4- Quyết định việc tuyên bố tình trạng chiến tranh.
5- Kiểm soát chính phủ trong việc thi hành chánh sách Quốc Gia.
6- Trong phạm vi mỗi viện, quyết định hợp thức hóa sự đắc cử của các Dân Biểu hay Nghị Sĩ.
[sửa] ĐIỀU 40
1- Mỗi viện với một phần ba (1/3) tổng số Dân Biểu hay Nghị Sĩ có quyền yêu cầu Thủ Tướng hay các nhân viên chính phủ ra trước Viện sở quan để trả lời các câu chất vấn về sự thi hành chánh sách quốc gia.
2- Chủ tịch Ủy Ban của mỗi viện có quyền yêu cầu các nhân viên chánh phủ tham dự các phiên họp của Uũy Ban để trình bày về các vấn đề liên quan đến Bộ sở quan.
[sửa] ĐIỀU 41
Thượng Nghị Viện có quyền mở cuộc điều tra về sự thi hành chánh sách quốc gia và yêu cầu các cơ quan công quyền xuất trình các tài liệu cần thiết cho cuộc điều tra này.
[sửa] ĐIỀU 42
1- Quốc Hội có quyền khuyến cáo thay thế từng phần hay toàn thể Chánh phủ với đa số hai phần ba (2/3) tổng số Dân Biểu và Nghị Sĩ.
2- Nếu Tổng Thống không có lý do đặc biệt để khước từ, sự khuyến cáo sẽ có hiệu lực.
3- Trong trường hợp Tổng Thống khước từ, Quốc Hội có quyền chung quyết sự khuyến cáo với đa số ba phần tư (3/4) tổng số Dân Biểu và Nghị Sĩ. Sự khuyến cáo sau này của Quốc Hội có hiệu lực kể từ ngày chung quyết.
[sửa] ĐIỀU 43
1- Dân Biểu và Nghị Sĩ có quyền đề nghị các dự án luật.
2- Tổng Thống có quyền đề nghị các dự thảo luật.
3- Các dự án luật và dự thảo luật, gọi chung là dự luật phải được đệ nạp tại văn phòng Hạ Nghị Viện.
4- Trong mọi trường hợp Hạ Nghị Viện chấp thuận hoặc bác bỏ một dự luật, Viện này đều chuyển dự luật sang văn phòng Thượng Nghị Viện trong thời hạn ba (3) ngày tròn.
5- Nếu Thượng Nghị Viện đồng quan điểm với Hạ Nghị Viện, dự luật sẽ được chuyển sang Tổng Thống để ban hành hoặc sẽ bị bác bỏ.
6- Nếu Thượng Nghị Viện không đồng quan điểm với Hạ Nghị Viện, dự luật sẽ được gởi về văn phòng Hạ Nghị Viện trong thời hạn ba (3) ngày tròn, kèm theo quyết nghị có viện dẫn lý do.
7- Trong trường hợp sau này, Hạ Nghị Viện có quyền chung quyết dự luật với đa số hai phần ba (2/3) tổng số Dân Biểu.
8- Nếu Hạ Nghị Viện không hội đủ đa số hai phần ba (2/3) nói trên, quan điểm của Thượng Nghị Viện được coi là chung quyết.
9- Thời gian thảo luận và biểu quyết một dự luật tại Thượng Nghị Viện chỉ có thể bằng phân nửa (1/2) thời gian thảo luận và biểu quyết tại Hạ Nghị Viện. Thời gian thảo luận và chung quyết một dự luật tại Hạ Nghị Viện chỉ có thể gấp đôi thời gian thảo luận và biểu quyết tại Thượng Nghị Viện.
[sửa] ĐIỀU 44
1- Các dự luật được Quốc Hội chung quyết sẽ được chuyển sang Tổng Thống trong thời hạn ba (3) ngày tròn.
2- Thời gian ban hành là mười lăm (15) ngày tròn kể từ ngày Tổng Thống tiếp nhận dự luật.
3- Trong trường hợp khẩn cấp do Quốc Hội thẩm định, thời hạn ban hành là bảy (7) ngày tròn.
4- Nếu Tổng Thống không ban hành trong các thời hạn kể trên, dự luật đã được Quốc Hội biểu quyết đương nhiên thành luật và sẽ được Chủ Tịch Thượng Nghị Viện ban hành.
[sửa] ĐIỀU 45
1- Trong thời hạn ban hành, Tổng Thống có quyền gởi thông điệp có viện dẫn lý do yêu cầu Quốc Hội phúc nghị một hay nhiều điều khoản của dự luật.
2- Trong trường hợp này, Quốc Hội sẽ họp khoáng đại lưỡng viện để chung quyết dự luật với đa số quá bán (1/2) tổng số Dân Biểu và Nghị Sĩ. Nếu Quốc Hội chung quyết bác bỏ lời yêu cầu phúc nghị của Tổng Thống, dự luật đương nhiên thành luật và được chuyển sang Tổng Thống để ban hành.
[sửa] ĐIỀU 46
1- Dự thảo ngân sách được đệ nạp tại văn phòng Hạ Nghị Viện trước ngày ba mươi tháng chín (30-09).
2- Dân Biểu và Nghị Sĩ có quyền đề nghị các khoản chi mới nhưng đồng thời phải đề nghị các khoản thu tương đương.
3- Hạ Nghị Viện phải biểu quyết dự thảo ngân sách trước ngày ba mươi tháng mười một (30-11) và chuyển bản văn đã được chấp thuận đến văn phòng Thượng Nghị Viện chậm nhất là ngày một tháng mười hai (1-12).
4- Thượng Nghị Viện phải biểu quyết dự thảo ngân sách trước ngày ba mươi mốt tháng mười hai (31-12).
5- Trong thời hạn nói trên, nếu Thượng Nghị Viện yêu cầu Hạ Nghị Viện phúc nghị một hay nhiều điều khoản trong dự thảo ngân sách, thủ tục qui định tại điều 43 phải được áp dụng. Trường hợp này Tổng Thống có quyền ký sắc luật cho thi hành từng phần ngân sách tương đương với một phần mười hai (1/12) ngân sách thuộc tài khoá trước cho đến khi Hạ Nghị Viện chung quyết xong dự thảo ngân sách.
[sửa] ĐIỀU 47
1- Mỗi Viện họp những khóa thường lệ và những khóa bất thường.
2- Hằng năm mỗi viện họp hai khóa thường lệ. Một khóa họp bắt đầu ngày thứ Hai đầu tiên trong tháng Tư dương lịch, một khóa họp bắt đầu ngày thứ hai đầu tiên trong tháng Mười dương lịch. Mỗi khóa họp thường lệ không thể lâu quá chín mươi (90) ngày. Tuy nhiên Hạ Nghị Viện có thể triển hạn khóa họp để chung quyết dự thảo ngân sách.
3- Mỗi viện có thể triệu tập các khóa họp bất thường khi có sự yêu cầu của Tổng Thống hoặc một phần ba (1/3) tổng số Dân Biểu hay Nghị Sĩ. Nếu khóa họp bất thường do Tổng Thống yêu cầu triệu tập, nghị trình khóa họp do Tổng Thống ấn định.
[sửa] ĐIỀU 48
1- Quốc Hội họp công khai trừ khi quá bán (1/2) tổng số Dân Biểu hay Nghị Sĩ hiện diện yêu cầu họp kín.
2- Trong các phiên họp công khai, biên bản tường thuật toàn vẹn cuộc thảo luận và các tài liệu trình bày tại Quốc Hội sẽ được đăng trên Công Báo.
[sửa] ĐIỀU 49
1- Mỗi viện bầu Chủ Tịch và các nhân viên văn phòng.
2- Mỗi viện thành lập các Ủy Ban thường trực và các Ủy Ban đặc biệt.
3- Mỗi viện trọn quyền ấn định nội quy.
4- Văn phòng hai (2) viện ấn định thủ tục liên lạc và sinh hoạt giữa hai (2) viện.
[sửa] ĐIỀU 50
1- Chủ Tịch Thượng Nghị Viện triệu tập và chủ tọa các phiên họp khoáng đại lưỡng viện.
2- Trường hợp Chủ Tịch Thượng Nghị Viện bị ngăn trở, Chủ Tịch Hạ Nghị Viện sẽ thay thế Chủ Tịch Thượng Nghị Viện trong nhiệm vụ này .



[sửa] CHƯƠNG IV: Hành Pháp
[sửa] ĐIỀU 51
Quyền Hành Pháp được Quốc Dân ủy nhiệm cho Tổng Thống.
[sửa] ĐIỀU 52
1- Tổng Thống và Phó Tổng Thống cùng đứng chung một liên danh, được cử tri toàn quốc bầu lên theo lối phổ thông đầu phiếu trực tiếp và kín.
2- Nhiệm kỳ của Tổng Thống và Phó Tổng Thống là bốn (4) năm. Tổng Thống và Phó Tổng Thống có thể được tái cử một lần.
3- Nhiệm kỳ của Tổng Thống và Phó Tổng Thống chấm dứt đúng mười hai (12) giờ trưa ngày cuối cùng tháng thứ bốn mươi tám (48) kể từ ngày nhậm chức và nhiệm kỳ của tân Tổng Thống và tân Phó Tổng Thống bắt đầu từ lúc ấy.
4- Cuộc bầu cử tân Tổng Thống và tân Phó Tổng Thống được tổ chức vào ngày chúa nhật bốn (4) tuần lễ trước khi nhiệm kỳ của Tổng Thống tại chức chấm dứt.
[sửa] ĐIỀU 53
Được quyền ứng cử Tổng Thống hoặc Phó Tổng Thống những công dân hội đủ các điều kiện sau đây :
1- Có Việt tịch từ khi mới sanh ra và liên tục cư ngụ trên lãnh thổ Việt Nam ít nhất mười (10) năm tính đến ngày bầu cử.
Thời gian công cán và lưu vong chánh trị tại ngoại quốc được kể như thời gian cư ngụ tại nước nhà.
2- Đủ ba mươi lăm (35) tuổi tính đến ngày bầu cử.
3- Được hưởng các quyền công dân.
4- Ở trong tình trạng hợp lệ quân dịch.
5- Hội đủ những điều kiện khác dự liệu trong đạo luật bầu cử Tổng Thống và Phó Tổng Thống.
[sửa] ĐIỀU 54
1- Tối cao Pháp viện lập danh sách ứng cử viên, kiểm soát tánh cách hợp thức của cuộc bầu cử và tuyên bố kết quả.
2- Các ứng cử viên được hưởng đồng đều phương tiện trong cuộc vận động tuyển cử.
3- Một đạo luật sẽ qui định thể thức ứng cử và bầu cử Tổng Thống và Phó Tổng Thống.
[sửa] ĐIỀU 55
Khi nhậm chức, Tổng Thống tuyên thệ trước quốc dân với sự chứng kiến của Tối cao Pháp viện và Quốc Hội : "Tôi long trọng tuyên thệ trước quốc dân sẽ bảo vệ Tổ Quốc, tôn trọng Hiến Pháp, phục vụ quyền lợi quốc gia dân tộc và tận lực làm tròn nhiệm vụ Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa".
[sửa] ĐIỀU 56
1- Nhiệm kỳ của Tổng Thống và Phó Tổng Thống có thể chấm dứt trước hạn kỳ trong những trường hợp :
a- Mệnh chung.
b- Từ chức.
c- Bị truất quyền.
d- Bị bệnh tật trầm trọng và kéo dài không còn năng lực để làm tròn nhiệm vụ. Sự mất năng lực này phải được Quốc Hội xác nhận với đa số ba phần tư (3/4) tổng số Dân Biểu và Nghị Sĩ sau các cuộc giám định và phản giám định y khoa.
2- Trong trường hợp nhiệm vụ của Tổng Thống chấm dứt trên một (1) năm trước kỳ hạn, Phó Tổng Thống sẽ tạm thời đảm nhiệm chức vụ Tổng Thống trong thời hạn ba (3) tháng để tổ chức cuộc bầu cử tân Tổng Thống và tân Phó Tổng Thống cho nhiệm kỳ mới.
3- Trong trường hợp nhiệm vụ Tổng Thống chấm dứt dưới một (1) năm trước kỳ hạn, Phó Tổng Thống sẽ đảm nhiệm chức vụ Tổng Thống đến hết nhiệm kỳ, ngoại trừ trường hợp Tổng Thống bị truất quyền.
4- Nếu vì một lý do gì Phó Tổng Thống không thể đảm nhiệm chức vụ Tổng Thống, Chủ Tịch Thượng Nghị Viện sẽ đảm nhiệm chức vụ này trong thời hạn ba (3) tháng để tổ chức bầu cử tân Tổng Thống và tân Phó Tổng Thống.
[sửa] ĐIỀU 57
Tổng Thống ban hành các đạo luật trong thời hạn qui định ở điều 44.
[sửa] ĐIỀU 58
1- Tổng Thống bổ nhiệm Thủ Tướng; theo đề nghị của Thủ Tướng, Tổng Thống bổ nhiệm các nhân viên Chánh Phủ.
2- Tổng Thống có quyền cải tổ toàn bộ hay một phần Chánh Phủ, hoặc tự ý, hoặc sau khi có khuyến cáo của Quốc Hội.
[sửa] ĐIỀU 59
1- Tổng Thống bổ nhiệm với sự chấp thuận của Thượng Nghị Viện :
a- Các trưởng nhiệm sở ngoại giao.
b- Viện Trưởng các viện Đại Học.
2- Tổng Thống thay mặt Quốc Gia trong việc giao thiệp với ngoại quốc, tiếp nhận ủy nhiệm thư của các đại diện ngoại giao.
3- Tổng Thống ký kết và sau khi được Quốc Hội phê chuẩn, ban hành các hiệp ước và hiệp định quốc tế.
[sửa] ĐIỀU 60
Tổng Thống là Tổng Tư Lệnh tối cao Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
[sửa] ĐIỀU 61
1- Tổng Thống ban các loại huy chương.
2- Tổng Thống có quyền ân xá và ân giảm hình phạt các phạm nhân.
[sửa] ĐIỀU 62
1- Tổng Thống hoạch định chánh sách quốc gia.
2- Tổng Thống chủ tọa Hội Đồng Tổng Trưởng.
[sửa] ĐIỀU 63
1- Tổng Thống tiếp xúc với Quốc Hội bằng thông điệp. Vào mỗi khóa họp thường lệ và mỗi khi thấy cần, Tổng Thống thông báo cho Quốc Hội biết tình hình quốc gia và chánh sách đối nội, đối ngoại của Chánh Phủ.
2- Thủ Tướng và các nhân viên Chánh Phủ có thể tham dự các phiên họp của Quốc Hội hoặc của các Ủy Ban để trình bày và giải thích về các vấn đề liên quan đến chánh sách quốc gia và sự thi hành chánh sách quốc gia.
[sửa] ĐIỀU 64
1- Trong các trường hợp đặc biệt, Tổng Thống có thể ký sắc luật tuyên bố tình trạng báo động, giới nghiêm hay khẩn trương trên một phần hay toàn lãnh thổ.
2- Quốc Hội phải được triệu tập chậm nhất mười hai (12) ngày kể từ ngày ban hành sắc luật để phê chuẩn, sửa đổi hoặc bải bỏ.
3- Trong trường hợp Quốc Hội bải bỏ hoặc sửa đổi sắc luật của Tổng Thống, các tình trạng đặc biệt đã được ban hành sẽ chấm dứt hoặc thay đổi hiệu lực.
[sửa] ĐIỀU 65
Trong tình trạng chiến tranh không thể tổ chức bầu cử được, với sự chấp thuận của hai phần ba (2/3) tổng số Dân Biểu và Nghị Sĩ, Tổng Thống có quyền lưu nhiệm một số các cơ quan dân cử và bổ nhiệm một số tỉnh trưởng.
[sửa] ĐIỀU 66
1- Phó Tổng Thống là Chủ tịch hội đồng văn hóa giáo dục, hội đồng kinh tế xã hội và hội đồng các Sắc Tộc thiểu số.
2- Phó Tổng Thống không thể kiêm nhiệm một chức vụ nào khác trong Chánh phủ.
[sửa] ĐIỀU 67
1- Thủ Tướng điều khiển Chánh Phủ và các cơ cấu hành chánh quốc gia.
2- Thủ Tướng chịu trách nhiệm về sự thi hành chánh sách quốc gia trước Tổng Thống.
[sửa] ĐIỀU 68
1- Tổng Thống, Phó Tổng Thống và các nhân viên Chánh Phủ không thể kiêm nhiệm một chức vụ nào thuộc lãnh vực tư, dù có thù lao hay không.
2- Trong mọi trường hợp người hôn phối của các vị này không được tham dự các cuộc đấu thầu hoặc kết ước với các cơ quan công quyền.
[sửa] ĐIỀU 69
1- Hội Đồng An Ninh Quốc Gia có nhiệm vụ :
- Nghiên cứ các vấn đề liên quan đến an ninh quốc phòng.
- Đề nghị các biện pháp thích ứng để duy trì an ninh quốc gia.
- Đề nghị tuyên bố tình trạng bắo động, giới nghiêm, khẩn trương hoặc chiến tranh.
- Đề nghị tuyên chiến hay nghị hòa.
2- Tổng Thống là Chủ Tịch Hội Đồng An Ninh Quốc Gia.
[sửa] ĐIỀU 70
1- Nguyên tắc địa phương phân quyền được công nhận cho các tập thể địa phương có tư cách pháp nhân như : xã, tỉnh, thị xã và thủ đô.
2- Một đạo luật sẽ qui định sự tổ chức và điều hành nền hành chánh địa phương.
[sửa] ĐIỀU 71
1- Các cơ quan quyết định và các vị chỉ huy các cơ quan chấp hành các tập thể địa phương phân quyền sẽ do cử tri bầu lên theo lối phổ thông đầu phiếu trực tiếp và kín.
2- Riêng ở cấp xã, xã trưởng có thể do hội đồng xã bầu lên trong số các hội viên hội đồng xã.
[sửa] ĐIỀU 72
Các vị chỉ huy các cơ quan chấp hành của các tập thể địa phương phân quyền là :
- Xã trưởng ở cấp xã.
- Tỉnh trưởng ở cấp tỉnh.
- Thị trưởng ở cấp thị xã Đô trưởng ở thủ đô.
[sửa] ĐIỀU 74
Chánh Phủ bổ nhiệm bên cạnh các Đô Trưởng, Thị Trưởng, Xã Trưởng hai (2) viên chức có nhiệm vụ phụ tá về hành chánh và an ninh cùng các nhân viên hành chánh khác.
[sửa] ĐIỀU 75
Nhân viên các cơ quan quyết nghị và các vị chỉ huy các cơ quan chấp hành của các tập thể địa phương phân quyền có thể bị Tổng Thống giải nhiệm trong trường hợp vi phạm Hiến Pháp, luật pháp quốc gia hay chánh sách quốc gia.



[sửa] CHƯƠNG V: Tư Pháp
[sửa] ĐIỀU 76
1- Quyền Tư Pháp độc lập, được ủy nhiệm cho Tối Cao Pháp Viện và được hành xử bởi các Thẩm Phán xử án.
2- Một đạo luật sẽ qui định sự tổ chức và điều hành ngành Tư Pháp.
[sửa] ĐIỀU 77
Mọi Tòa Án phải do một đạo luật thiết lập với một thành phần Thẩm Phán xử án và Thẩm Phán công tố chuyên nghiệp và theo một thủ tục tôn trọng quyền biện hộ.
[sửa] ĐIỀU 78
1- Thẩm Phán xử án và Thẩm Phán công tố được phân nhiệm rõ rệt và có qui chế riêng biệt.
2- Thẩm Phán xử án quyết định theo lương tâm và pháp luật dưới sự kiểm soát của Tối Cao Pháp Viện.
3- Thẩm Phán công tố theo dõi sự áp dụng luật pháp để bảo vệ trật tự công cộng dưới sự kiểm soát của Bộ Tư Pháp.
[sửa] ĐIỀU 79
Thẩm Phán xử án chỉ có thể bị giải nhiệm trong trường hợp bị kết án, vi phạm kỷ luật hay bất lực về tinh thần hoặc thể chất.
[sửa] ĐIỀU 80
1- Tối Cao Pháp Viện gồm từ chín (9) đến mười lăm (15) Thẩm Phán. Tối Cao Pháp Viện do Quốc Hội tuyển chọn và Tổng Thống bổ nhiệm theo một danh sách ba mươi (30) người do Thẩm Phán Đoàn, Công Tố Đoàn và Luật Sư Đoàn bầu lên.
2- Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện phải là những Thẩm Phán hay Luật Sư đã hành nghề ít nhất mười (10) năm trong ngành Tư Pháp.
3- Nhiệm kỳ của Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện là sáu (6) năm.
4- Thành phần cử tri thuộc Thẩm Phán Đoàn, Công Tố Đoàn và Luật Sư Đoàn phải đồng đều.
5- Một đạo luật sẽ qui định sự tổ chức và điều hành Tối Cao Pháp Viện.
[sửa] ĐIỀU 81
1- Tối Cao Pháp Viện có thẩm quyền giải thích Hiến Pháp, phán quyết về tánh cách hợp hiến hay bất hợp hiến của các đạo luật, sắc luật; tánh cách hợp hiến và hợp pháp của các sắc lệnh, nghị định và quyết định hành chánh.
2- Tối Cao Pháp Viện có thẩm quyền phán quyết về việc giải tán một chánh đảng có chủ trương và hành động chống lại chánh thể Cộng Hòa.
3- Trong trường hợp này, Tối Cao Pháp Viện sẽ họp khoáng đại toàn viện, các đại diện Lập Pháp hoặc Hành Pháp có thể tham dự để trình bày quan điểm.
4- Những quyết định của Tối Cao Pháp Viện tuyên bố một đạo luật bất hợp hiến hoặc giải tán một chánh đảng phải hội đủ đa số ba phần tư (3/4) tổng số Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện.
[sửa] ĐIỀU 82
Tối Cao Pháp Viện có thẩm quyền phán quyết về các vụ thượng tố các bản án chung thẩm.
[sửa] ĐIỀU 83
Tối Cao Pháp Viện có ngân sách tự trị và có quyền lập qui để quản trị ngành Tư Pháp.
[sửa] ĐIỀU 84
1- Hội Đồng Thẩm Phán có nhiệm vụ :
- Đề nghị bổ nhiệm, thăng thưởng, thuyên chuyển và chế tài về kỷ luật các Thẩm Phán xử án.
- Cố vấn Tối Cao Pháp Viện về các vấn đề liên quan đến ngành Tư Pháp.
3- Hội Đồng Thẩm Phán gồm các Thẩm Phán xử án do các Thẩm Phán xử án bầu lên.
4- Một đạo luật sẽ qui định sự tổ chức và điều hành Hội Đồng Thẩm Phán.



[sửa] CHƯƠNG VI: Các Định Chế Đặc Biệt
Đặc Biệt Pháp Viện

[sửa] ĐIỀU 85
Đặc Biệt Pháp Viện có thẩm quyền truất quyền Tổng Thống, Phó Tổng Thống, Thủ Tướng, các Tổng Bộ Trưởng, các Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện và các Giám Sát Viện trong trường hợp can tội phản quốc và các trọng tội khác.
[sửa] ĐIỀU 86
1- Đặc Biệt Pháp Viện do Chủ Tịch Tối Cao Pháp Viện giữ chức Chánh Thẩm và gồm năm (5) Dân Biểu và năm (5) Nghị Sĩ.
2- Khi Chủ Tịch Tối Cao Pháp Viện là bị can, Chủ Tịch Thượng Nghị Viện giữ chức Chánh Thẩm.
[sửa] ĐIỀU 87
1- Đề nghị khởi tố có viện dẫn lý do phải được quá bán (1/2) tổng số Dân Biểu và Nghị Sĩ ký tên. Quyết định khởi tố phải được đa số hai phần ba (2/3) tổng số Dân Biểu và Nghị Sĩ biểu quyết chấp thuận.
Riêng đối với Tổng Thống và Phó Tổng Thống đề nghị khởi tố có viện dẫn lý do phải được hai phần ba (2/3) tổng số Dân Biểu và Nghị Sĩ ký tên Quyết định khởi tố phải được đa số ba phần tư (3/4) tổng số Dân Biểu và Nghị Sĩ biểu quyết chấp thuận.
2- Đương sự phải đình chỉ nhiệm vụ từ khi Quốc Hội biểu quyết truy tố đến khi Đặc Biệt Pháp Viện phán quyết.
3- Đặc Biệt Pháp Viện phán quyết truất quyền theo đa số ba phần tư (3/4) tổng số nhân viên. Riêng đối với Tổng Thống và Phó Tổng Thống phán quyết truất quyền theo đa số bốn phần năm (4/5) tổng số nhân viên.
4- Đương sự được quyền biện hộ trong mọi giai đoạn của thủ tục truy tố.
5- Sau khi bị truất quyền, đương sự có thể bị truy tố trước các tòa án có thẩm quyền.
6- Một đạo luật sẽ qui định sự tổ chức, điều hành và thủ tục trước Đặc Biệt Pháp Viện.
Giám Sát Viện

[sửa] ĐIỀU 88
Giám Sát Viện có thẩm quyền :
1- Thanh tra, kiểm soát và điều tra nhân viên các cơ quan công quyền và tư nhân đồng phạm hay tòng phạm về mọi hành vi tham nhũng, đầu cơ, hối mại quyền thế hoặc phương hại đến quyền lợi quốc gia.
2- Thẩm tra kế toán đối với các cơ quan công quyền và hợp doanh.
3- Kiểm kê tài sản các nhân viên các cơ quan công quyền kể cả Tổng Thống, Phó Tổng Thống, Thủ Tướng, Dân Biểu, Nghị Sỉ, Chủ Tịch Tối Cao Pháp Viện.
4- Riêng đối với Chủ Tịch Giám Sát Viện và các Giám Sát Viên, việc kiểm kê tài sản do Tối Cao Pháp Viện đảm trách.
[sửa] ĐIỀU 89
1- Giám Sát Viện có quyền đề nghị các biện pháp chế tài về kỷ luật đối với nhân viên phạm lỗi hoặc yêu cầu truy tố đương sự ra trước tòa án có thẩm quyền.
2- Giám Sát Viện có quyền công bố kết quả cuộc điều tra.
[sửa] ĐIỀU 90
1- Giám Sát Viện gồm từ chín (9) đến mười tám (18) Giám Sát viên, một phần ba (1/3) do Quốc Hội, một phần ba (1/3) do Tổng Thống và một phần ba (1/3) do Tối Cao Pháp Viện chỉ định.
2- Giám Sát viên được hưởng những quyền hạn và bảo đảm cần thiết để thi hành nhiệm vụ.
[sửa] ĐIỀU 91
Giám Sát Viện có ngân sách tự trị và có quyền lập qui để tổ chức nội bộ và quản trị ngành giám sát.
Một đạo luật sẽ qui định sự tổ chức và điều hành Giám Sát Viện.
Hội Đồng Quân Lực

[sửa] ĐIỀU 92
1- Hội Đồng Quân Lực cố vấn Tổng Thống về các vấn đề liên quan đến Quân Lực, đặc biệt là việc thăng thưởng, thuyên chuyển và trừng phạt quân nhân các cấp.
2- Một đạo luật sẽ qui định sự tổ chức và điều hành Hội Đồng Quân Lực.
Hội Đồng Văn Hóa Giáo Dục

[sửa] ĐIỀU 93
1- Hội Đồng Văn Hóa Giáo Dục có nhiệm vụ cố vấn Chánh Phủ soạn thảo và thực thi chánh sách văn hóa giáo dục.
Một Lâm Viện Quốc Gia sẽ được thành lập
2- Với sự chấp thuận của Quốc Hội, Hội Đồng Văn Hóa Giáo Dục có thể cử đại diện thuyết trình trước Quốc Hội về các vấn đề liên hệ.
3- Các dự luật liên quan đến văn hóa giáo dục có thể được Hội Đồng tham gia ý kiến trước khi Quốc Hội thảo luận.
[sửa] ĐIỀU 94
1- Hội Đồng Văn Hóa Giáo Dục gồm :
- Một phần ba (1/3) hội viên do Tổng Thống chỉ định.
- Hai phần ba (2/3) hội viên do các tổ chức văn hóa giáo dục công và tư, các hiệp hội phụ huynh học sinh đề cử.
2- Nhiệm kỳ củ Hội Đồng Văn Hóa Giáo Dục là bốn (4) năm.
3- Một đạo luật sẽ qui định sự tổ chức và điều hành Hội Đồng Văn Hóa Giáo Dục.
Hội Đồng Kinh Tế Xã Hội

[sửa] ĐIỀU 95
1- Hội Đồng Kinh Tế Xã Hội có nhiệm vụ cố vấn chánh phủ về những vấn đề kinh tế và xã hội.
2- Với sự chấp thuận của Quốc Hội, Hội Đồng Kinh Tế Xã Hội có thể cử đại diện thuyết trình trước Quốc Hội về các vấn đề liên hệ.
3- Các dự luật kinh tế và xã hội có thể được Hội Đồng Kinh Tế Xã Hội tham gia ý kiến trước khi Quốc Hội thảo luận.
[sửa] ĐIỀU 96
1- Hội Đồng Kinh Tế Xã Hội gồm :
- Một phần ba (1/3) hội viên do Tổng Thống chỉ định.
- Hai phần ba (2/3) hội viên do các tổ chức công kỹ nghệ, thương mại, nghiệp đoàn, các hiệp hội có tánh cách kinh tế và xã hội đề cử.
2- Nhiệm kỳ Hội Đồng Kinh Tế Xã Hội là bốn (4) năm.
3- Một đạo luật sẽ qui định sự tổ chức và điều hành Hội Đồng Kinh Tế Xã Hội.
Hội Đồng các Sắc Tộc

[sửa] ĐIỀU 97
1- Hội Đồng các Sắc Tộc có nhiệm vụ cố vấn chánh phủ về các vấn đề liên quan đến đồng bào thiểu số.
2- Với sự chấp thuận của Quốc Hội, Hội Đồng các Sắc Tộc có thể cử đại diện thuyết trình trước Quốc Hội về các vấn đề liên hệ.
3- Các dự luật liên quan đến đồng bào thiểu số có thể được Hội Đồng các Sắc Tộc tham gia ý kiến trước khi đưa ra Quốc Hội thảo luận.
[sửa] ĐIỀU 98
1- Hội Đồng các Sắc Tộc gồm có :
- Một phần ba (1/3) hội viên do Tổng Thống chỉ định.
- Hai phần ba (2/3) hội viên do các Sắc Tộc Thiểu Số đề cử.
2- Nhiệm kỳ Hội Đồng các Sắc Tộc là bốn (4) năm.
3- Một đạo luật sẽ qui định sự tổ chức và điều hành Hội Đồng các Sắc Tộc.



[sửa] CHƯƠNG VII: Chính Đảng và Đối Lập

Bản đồ hành chính cho biết địa giới các tỉnh của Việt Nam Cộng Hòa, tháng 6 năm 1967[sửa] ĐIỀU 99
1- Quốc Gia công nhận chánh đảng giữ vai trò thiết yếu trong chế độ dân chủ.
2- Chánh đảng được tự do thành lập và hoạt động theo các thể thức và điều kiện luật định.
[sửa] ĐIỀU 100
Quốc Gia khuyến khích việc tiến tới chế độ lưỡng đảng.
[sửa] ĐIỀU 101
Quốc Gia công nhận sự định chế hóa đối lập chính trị.
[sửa] ĐIỀU 102
Một đạo luật sẽ ấn định quy chế chánh đảng và đối lập chính trị.



[sửa] CHƯƠNG VIII: Tu Chính Hiến Pháp
[sửa] ĐIỀU 103
1- Tổng Thống, quá bán (1/2) tổng số Dân Biểu hay quá bán (1/2) tổng số Nghị Sĩ có quyền đề nghị tu chính Hiến Pháp.
2- Đề nghị phải viện dẫn lý do và được đệ nạp tại văn phòng Thượng Nghị Viện.
[sửa] ĐIỀU 104
Một Ủy Ban lưỡng Viện sẽ được thành lập để nghiên cứu về đề nghị tu chính Hiến Pháp và thuyết trình trong những phiên họp khoáng đại lưỡng Viện.
[sửa] ĐIỀU 105
Quyết định tu chính Hiến Pháp phải hội đủ hai phần ba (2/3) tổng số Dân Biểu và Nghị Sĩ.
[sửa] ĐIỀU 106
Tổng Thống ban hành đạo luật tu chính Hiến Pháp theo thủ tục quy định ở Điều 44.
[sửa] ĐIỀU 107
Không thể huỷ bỏ hoặc tu chính điều một (1) và điều này của Hiến Pháp.



[sửa] CHƯƠNG IX: Điều khoản Chuyển Tiếp
[sửa] ĐIỀU 108
Hiến Pháp bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày ban hành và Ước Pháp tạm thời ngày mười chín tháng sáu năm một ngàn chín trăm sáu mươi lăm (19.06.1965) đương nhiên hết hiệu lực.
[sửa] ĐIỀU 109
Trong thời gian chuyển tiếp, Quốc Hội dân cử ngày mười một tháng chín năm một ngàn chín trăm sáu mươi sáu (11.09.1966) đại diện Quốc Dân trong phạm vi lập pháp
1- Soạn thảo và chung quyết :
- Các đạo luật bầu cử Tổng Thống và Phó Tổng Thống, Thượng Nghị Viện và Hạ Nghị Viện.
- Cá đạo luật tổ chức Tối Cao Pháp Viện và Giám Sát Viện.
- Các quy chế chánh đảng và báo chí.
2- Phê chuẩn các Hiệp Ước.
[sửa] ĐIỀU 110
Kể từ khi Tổng Thống và Phó Tổng Thống nhiệm kỳ một (1) nhậm chức, Quốc Hội dân cử ngày mười một tháng chín năm một ngàn chín trăm sáu mươi sáu (11.09.1966) đảm nhiệm quyền Lập Pháp cho đến khi Quốc Hội pháp nhiệm một (1) được triệu tập.
[sửa] ĐIỀU 111
Trong thời gian chuyển tiếp, Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia và Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương lưu nhiệm cho đến khi Tổng Thống và Phó Tổng Thống nhiệm kỳ một (1) nhậm chức.
[sửa] ĐIỀU 112
Trong thời gian chuyển tiếp, các Tòa Án hiện hành vẫn tiếp tục hành xử quyền Tư Pháp cho đến khi các định chế Tư Pháp qui định trong Hiến Pháp này được thành lập.
[sửa] ĐIỀU 113
Quốc Hội dân cử ngày mười một tháng chín năm một chín trăm sáu mươi sáu (11.09.1966) sẽ lập danh sách ứng cử viên, kiểm soát tánh cách hợp thức và tuyên bố kết quả cuộc bầu cử Tổng Thống và Phó Tổng Thống nhiệm kỳ một (1).
[sửa] ĐIỀU 114
Trong nhiệm kỳ đầu tiên, Tổng Thống có thể bổ nhiệm các Tỉnh Trưởng.
[sửa] ĐIỀU 115
Cuộc bầu cử Tổng Thống và Phó Tổng Thống phải được tổ chức chậm nhất sáu (6) tháng kể từ ngày ban hành Hiến Pháp này.
[sửa] ĐIỀU 116
Cuộc bầu cử Quốc Hội Lập Pháp, việc tổ chức Tối Cao Pháp Viện và Giám Sát Viện phải được thực hiện chậm nhất là mười hai (12) tháng kể từ ngày Tổng Thống nhiệm kỳ một (1) nhậm chức.
[sửa] ĐIỀU 117
Các cơ cấu khác do Hiến Pháp qui định phải được thiết lập chậm nhất là hai (2) năm kể từ ngày Quốc Hội pháp nhiệm một (1) được thành lập.
Lấy từ “http://vi.wikisource.org/wiki/Hi%E1%BA%BFn_ph%C3%A1p_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a_1967”
Thể loại: Tác phẩm 1967 | Hiến pháp Việt Nam Cộng hòaXem
Văn kiệnThảo luậnSửa đổiLịch sửTheo dõiCông cụ cá nhân
Thử bản BetaLong ĐiềnThảo luận với tôiTùy chọnTrang tôi theo dõiĐóng góp của tôiĐăng xuấtXem nhanh
Trang Chính
Cộng đồng
Phòng thảo luận
Thay đổi gần đây
Trang ngẫu nhiên
Tác gia ngẫu nhiên
Trợ giúp
Quyên góp
In/xuất ra
Tạo một quyển sách
Tải về dưới dạng PDF
Bản để in
Tìm kiếm
Gõ tiếng Việt
Tự động [F9]
Telex (?)
VNI (?)
VIQR (?)
VIQR*
Tắt [F12]
--------------------------------------------------------------------------------
Bỏ dấu kiểu cũ [F7]
Đúng chính tả [F8]Công cụ
Các liên kết đến đây
Thay đổi liên quan
Các trang đặc biệt
Liên kết thường trực
Chú thích văn kiện này
Trang con

Sunday, November 8, 2009

Chương II Nhận Định Cuộc Chiến


a-Nhận định cuộc chiến Việt Nam phiá Quốc Gia Dân Tộc:
Sau đây là phần nhận định về Thưc Chất cuôc chiến Việt Nam của từng nhân vật lịch sử:
1-Hoàng Đế Bão Đại:(1913-1997)

Bảo Đại 1913-1997
Tiểu sử tóm lược:
Tên húy Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy
Sinh 1 năm 1913
tại Huế, Việt Nam

Mất 31 tháng 7 năm 1997
tại Paris, Pháp

Trị vì 1925 - 1945

Triều đại Nhà Nguyễn

Niên hiệu Bảo Đại (1926 - 1945)

Ghi chú Vị vua cuối cùng cuả triều Nguyễn.
Muốn tìm hiểu nhận định của Bảo Đại đối với cuộc chiến Việt Nam ,chúng ta tìm đọc 2 quyển sách liên quan đến Bảo Đại nhiều nhất đó là “BẢO ĐẠI, HAY LÀ NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG CỦA VƯƠNG QUỐC AN NAM” và quyển hồi ký “Con Rồng Việt Nam”
Bối cảnh lúc đó tại Việt Nam (1945):Pháp yếu thế ,giao quyền lại cho Nhật cai trị VN,Nhật thua trận bởi lực lượng Đồng Minh ,VN lúc đó gần như vô chính phủ,Việt Minh lợi dụng thời cơ cướp chính quyền (danh từ do CS sử dụng):
Có tài liệu cho biết ngày 19 tháng 8 năm 1945 Hoàng Đế bảo Đại từ chối tấn công Việt Minh vì lo ngại một việc nội chiến tương tàn giửa người Việt với nhau . Phiá Nhật nhận chỉ thị của Đồng Minh là phải bảo vệ an ninh và trật tự cho dân chúng nên đã cử một đại tá đến gặp vua để dẹp bạo loạn Việt Minh .
Vua Bảo Đại đã nói với phiá Nhật :”Tôi triệt để khước từ sự bảo vệ cuả ông.Tôi ra lệnh ông phải rút bỏ ngay những công tác ấy .Tôi không muốn rằng một quân đội ngoại quốc làm chảy máu dân tộc tôi”
( trong Le Dragon d’Annnam nhật ký của Bảo Đại trang 117.)tiếc thay nghiả cử cao đẹp đó của Bảo Đại đã bị Hồ Chí Minh lợi dụng để phục vụ cho nhu cầu của Cộng sản Quốc Tế . Ý định của Hồ không phải đem lại Tự Do Độc Lập cho Việt Nam mà chính là để áp đặt chủ nghiả ngoại lai Cộng sản lên đầu toàn dân Việt Nam!!!
Trách nhiệm lịch sử của vua Bảo Đại ở giai đoạn nầy trước quyết định sai lầm bàn giao quyền hành cho Hồ cũng không phải là nhỏ !(Việt Sử Khảo Luận trang 1996).Chỉ hơn 7 tháng sau tức là ngày 16.3.1946 Bảo Đại đã hiểu rỏ về con người của Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản nên tìm cách đi thăm viếng Trung Hoa ,thực tế là bỏ trốn chế độ CS!
“Hồ Chí Minh (1890?-1969) và Mặt trận Việt Minh liền lợi dụng thời cơ, nhanh tay cướp chính quyền tại Hà Nội ngày 19-8. Đại sứ Nhật tại Huế là Yokoyama vào yết kiến vua Bảo Đại, xin đem lực lượng Nhật tại Đông Dương (còn nguyên vẹn) dẹp tan cuộc đảo chánh của Việt Minh, nhưng vua Bảo Đại từ chối vì sợ cảnh nội chiến tương tàn trước sự lợi dụng của ngoại bang. Vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị ngày 25-8 và chính phủ Trần Trọng Kim giải tán”.
Vua Bảo Đại (1913-1997) là vị hoàng đế cuối cùng của nhà Nguyễn và cũng là ông vua cuối cùng của Việt Nam. Ngày 25 tháng 8 năm 1945 ông đã thoái vị với câu nói lịch sử:
"Muốn củng cố nền Độc Lập của nước nhà và bảo vệ quyền lợi của Dân Tộc.Trẩm sẳn sàng hy sinh về tất cả các phương diện.Trẩm để hạnh phúc của dân Việt Nam lên trên ngai vàng của Trẫm.Trẫm ưng được làm Dân một nước Độc Lập hơn làm Vua một nước bị trị. "
Bình luận việc nầy cho thấy không phải lúc ấy Bảo Đại quá sợ lực lượng Việt Minh ,vì lúc đó lực lượng VM tại Hà Nội chỉ vỏn vẹn 30 người với 17 khẩu súng lục.(VSKL quyển 4 trang 1993).
Sau đó ông được ông Hồ Chí Minh mời làm cố vấn tối cao cho chính phủ liên hiệp cùng với giám mục Công Giáo Lê Hữu Từ. Nhưng chẳng bao lâu, nhận ra ý đồ của ông Hồ và phe nhóm muốn xích hóa Việt Nam, ông đã thôi hợp tác. Năm 1949, theo lời yêu cầu của một số chính khách quốc gia, Bảo Đại trở lại chính trường với tư cách là quốc trưởng cho đến ngày 23 tháng 10 năm 1955 thì bị truất phế qua một cuộc “Trưng Cầu Dân Ý “,ông tiếp tục sống lưu vong ở Pháp cho đến khi qua đời ngày 31 tháng 7 năm 1997.
Vua Bảo Đại hiểu rỏ CSVN, sau khi trao quyền cho Hồ Chí Minh năm 1945, đồng thời ông cũng hiểu rỏ Hồ Chí Minh là người của Quốc Tế Cộng sản không có lòng yêu nước thật sự .Trong cuộc chiến từ 1945 đến 1975 Hồ chỉ thi hành các chỉ thị của CSQT để tấn công miền Nam gây cảnh huynh đệ tương tàn .Trong quyển hồi ký “Con Rồng Việt Nam” ông đã ghi rỏ những việc làm của thủ tướng Ngô Đình Diệm người mà sau nầy đã đưa ra cuộc Trưng Cầu Dân Ý truất phế ông ,nhưng ông nhận xét rất vô tư và lên án CSVN đã quấy động,gây rối làm thiệt hại cho Đất Nước và Dân Tộc:
"Hỏi: Tại sao Ngài lại trao quyền cho ông Ngô Đình Diệm để rồi ông này lật Ngài?"
Vua Bảo Đại cũng trả lời ngay :
"Ông Diệm là người tôi tín nhiệm. Lúc đó thế lực của Pháp đã thất bại. Phía Cộng Sản đã được Liên Sô tích cực ủng hộ về mọi mặt nên tôi khuyên ông Diệm nên tìm sự ủng hộ của Mỹ để có thể ngăn chặn (endiguer) sự bành trướng của Cộng Sản. Việc ông ta lật tôi là do sức ép của chính trị. Ông Diệm là NGƯỜI YÊU NƯỚC, lúc trao quyền tôi có yêu cầu ông ấy cam kết với tôi hai điều trước bàn thờ Chúa, vì ông ấy rất mộ đạo, là phải giữ vững miền Nam, và nếu không làm được sứ mạng ấy thì phải trao trả quyền lại cho tôi. Nhưng rồi ông ta đã CHẾT KHI THI HÀNH NHIỆM VỤ. Dù sao thì ông ta cũng cố giữ những lời cam kết ấy mà không được."
Có lẽ vì đã từng là quốc trưởng và đã phải đối phó với Cộng sản, có kinh nghiệm về các phương pháp khuấy động gây rối của cộng quân, hơn nữa tin tưởng ông Ngô Đình Diệm là người yêu nước thương dân, nên Bảo Đại không tin ông Diệm có thể bách hại Phật Giáo. Trong hồi ký ông đã viết:
"Tất cả đang tiến tới, thì chính phủ (Ngô Đình Diệm) gặp phải sự chống đối của các nhà sư. Ông Diệm và Nhu là người Công Giáo. Các nhà sư được cộng sản giật giây và mật vụ Mỹ tiếp tay, liền bắt đầu hành động. Chính quyền phải đối phó lại. Vô hình chung như mang mặc cảm kỳ thị tôn giáo…Ai đã xúi dục họ gây loạn, ai ? Họ ở đâu tới? Làm sao biết được họ từ Hà-nội vào hay từ Bắc Kinh tới?…"
Trong sách "Con Rồng Việt Nam" hồi ký của vua Bảo Đại, do Nguyễn Phước Tộc xuất bản năm 1990, tại Paris, trang 187,thời điểm tháng 8.1945 đáp lời kêu gọi thoái vị của Việt Minh,vua Bảo Đại đã nói nguyên văn:
“Trẫm yêu cầu tân chính phủ lấy tình huynh đệ đối xử với các đảng phái, các phe nhóm, các đoàn thể đã chiến đấu cho nền độc lập của đất nước, mặc dù không theo cùng đường hướng dân chủ của mặt trận, như vậy có thể giúp cho họ được tham gia vào sự kiến thiết đất nước, và chứng tỏ rằng tân chế độ đã được xây dựng trên tình đoàn kết dứt khoát của toàn thể nhân dân.”
"Vì hạnh phúc của dân tộc Việt Nam,
"Vì nền độc lập của Việt Nam,
"Để đạt hai mục đích ấy, Trẫm tuyên bố sẵn sàng hy sinh tất cả, và ước mong rằng sự hy sinh của Trẫm đem lại lợi ích cho Tổ quốc.
"Nhận định rằng sự đoàn kết của toàn thể đồng bào chúng ta vào giờ phút này là một sự cần thiết cho Tổ quốc chúng ta, ngày 3 tháng 8, Trẫm đã nhắc lại cho toàn thể nhân dân ta là: Ở giờ phút quyết định này của Lịch sử, đoàn kết có nghĩa là sống, mà chia rẽ là chết.
"Chiếu đà tiến dân chủ đang đẩy mạnh ở miền Bắc nước ta, Trẫm e ngại rằng một sự tranh chấp giữa miền Bắc với miền Nam khó tránh được, nếu Trẫm đợi sau cuộc trưng cầu dân ý, để quyết định thoái vị. Trẫm hiểu rằng, nếu có cuộc tranh chấp đó, đưa cả nước vào hỗn loạn đau thương, thì chỉ có lợi cho kẻ xâm lăng . ”
Trong các câu nói trên Bảo Đại không nói rỏ tranh chấp với hình thức nào,nhưng rỏ ràng ông muốn nói đến xung đột bằng súng đạn,vì ông dùng chử : “ đưa cả nước vào hỗn loạn đau thương”và xem đây là một cuộc nội chiến “có lợi cho kẻ xâm lăng”.Vua Bảo Đại cũng đã khuyên chính phủ Hồ Chí Minh dùng tình huynh đệ đối xử với các đảng phái ,phe nhóm khác với đường hướng cuả Mật trận Việt Minh,nhung sau đó Hồ và phe nhóm đã ra sức tàn sát các đảng phái và cả thường dân vô tội không chịu chấp hành chủ trương cuả đảng Cộng sản Việt Nam , đồng thời bọn họ đã tạo ra một cuộc nội chiến đẩm máu suốt 30 năm trời trên quê hương Việt Nam khốn khổ! Đồng thời Bảo Đại cũng đã thấy rỏ dã tâm của CSVN dùng chiêu bài chia rẻ tôn giáo để gây ra cuộc chiến đau thương cho cả dân tộc!Trong đó có cả lổi lầm cuả một số lãnh tụ tôn giáo :Phật Giáo,Công Giáo,Cao Đài,Hoà Hảo v.v… làm tay sai không công cho CSVN!.
Qua quyển hồi ký “Con Rồng Việt Nam “của vua Bảo Đại ta có thể tạm kết luận nhận định của ông qua cuộc chiến Việt Nam 1945-1975 như sau :
1- Bảo Đại năm 1945 sẳn sàng nhường ngôi cho Việt Minh để thống nhất đất nước hoà hợp dân tộc để chống ngoại xâm,không chấp nhận Nội Chiến ,huynh đệ tương tàn , vua Bảo Đại kêu gọi CS hảy lấy tình huynh đệ đối xử với các đảng phái và phe nhóm,nhưng CSVN luôn áp dụng đúng chỉ thị cuả CSQT là tiêu diệt giai cấp phản “Cách mạng”và tiêu diệt các tôn giáo, vì vậy sau đó vài tháng ông đã thấu rỏ dã tâm của Hồ muốn tiêu diệt các đảng phái Quốc Gia đang cộng tác với Việt Minh đánh đuổi thực dân Pháp. Ông đã thấy được sự tàn ác của CSVN đối với các tôn giáo và đảng phái ,vì thế ông đã rút lui không còn là Cố Vấn danh dự trong chính phủ HCM nửa, đồng thời cố công đi tìm người có thực tâm yêu nước lên nắm chính phủ. Ông đã kết luận :“Xích hoá Việt Nam ,gây cuộc nội chiến 1945-1954 là do CSVN nhận chỉ thị của CSQT mà thôi ”.
2- Năm 1954 sau khi hiệp định đình chiến Genève phân chia 2 miền Nam Bắc theo chủ trương của CSVN và CSQT đi ngược lại nguyện vọng của toàn dân Việt,nên ông đã hai lần khẩn khoản mời ông Ngô Đình Diệm để trao quyền thành lập chính phủ Quốc Gia chống lại sự xâm lăng của CS Bắc Việt.Lúc nầy không còn là cuộc nội chiến nửa mà là một cuộc xâm lăng một nước có chủ quyền và có chính phủ ,quân đội độc lập được quốc tế công nhận(nhưng lúc đó cả 2 miền Nam và Bắc VN chưa được vào Liên Hiệp Quốc)
3- Những biến động sau nầy tại Việt Nam (1954-1963) dù đang sống lưu vong tại Pháp,cựu hoàng Bảo Đại cũng nhận định rỏ ràng cuộc chiến 1945-1954 do CSVN thực hiện là một cuộc Nội Chiến và cuộc chiến sau 1954 là cuộc xâm lăng do đảng CSVN nhận chỉ thị của Nga Tàu,các cuộc biến động ,giết hại lẩn nhau đều do CS chủ trương .
4- Tuy nhiên cuộc sống của ông, ảnh hưởng bởi các cố vấn Pháp phần nào nặng về hưởng thụ vật chất , cho mình là bậc quân vương theo quan niệm phong kiến là các thần dân phải phục vụ cho vua chúa,nên sự đóng góp của ông cho Quốc Gia dân tộc không được là bao, so với vị thế mà ông đã có.


2-Tổng Thống Ngô Đình Diệm :


Ngô Đình Diệm 1901-1963.
http://www.vnfa.com/ct/un_hongo.html
Thân Thế Sự Nghiệp của Cố TT. Ngô Ðình Diệm
I.- 1901-1933
Tổng Thống Ngô Ðình Diệm sinh ngày 3-1-1901 tại Huế, là con trai thứ 3 của một gia đình gồm 6 trai 2 gái. Hai người anh của Cụ là Ông Ngô Ðình Khôi bị Việt-Minh hạ sát năm 1945 đang khi làm Tổng Ðốc tỉnh Quảng Nam và ÐTGM Ngô Ðình Thục. Ba người em là các ông Ngô Ðình Nhu, Ngô Ðình Luyện và Ngô Ðình Cẩn; 2 người em gái là bà Ấm và bà cả Lễ.
Thân sinh TT Diệm là cụ cố Ngô Ðình Khả, nguyên quán làng Ðại Phong, quận Lệ Thủy Tỉnh Quảng Bình. Cụ cố là vị khoa bảng nổi danh, đã từng làm Thượng Thư, thầy dạy và cố vấn của vua Thành Thái.
Vì được rèn luyện trong một gia đình Nho Giáo, dưới sự hướng dẫn của cụ cố thân sinh và người đỡ đầu là Thượng Thư Bộ Lại Nguyễn Hữu Bài; trong tinh thần Thiên Chúa Giáo hợp với triết thuyết Khổng Mạnh, nên cụ Diệm đã hấp thụ được những cá tính đặc biệt: cương nghị, thanh liêm, dũng cảm, chính trực, quảng đại, bất khuất, hy sinh quên mình vì dân vì nươc, sống cho đồng bào và chết cho tổ quốc.
Vừa trên 20 tuổi, đối với đại đa số quần chúng là năm vừa chập chững bước chân vào đời, thì cũng vào tuổi đó, Cụ đã được triều đình bổ nhiệm làm Tri phủ Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.
Năm 30 tuổi, cụ đã được thăng nhiệm làm Tổng Ðốc các tỉnh Phan-Rang rồi Phan Thiết. Nổi danh như cồn vì đã biết sử dụng uy quyền của mình để bênh vực quyền lợi của dân chúng nhất là những người nghèo khổ, đã can đảm có những hành động chống lại việc sưu thuế bóc lột của thực dân Pháp.
Năm 32 tuổi, Cụ lại được triều đình mời giữ chức vụ Thượng Thư Bộ Lai kiêm thư ký Ủy Ban Hỗn Hợp Việt Pháp gồm các Bộ Trưởng và các viên chức cao cấp người Pháp. Ủy Ban này có nhiệm vụ nghiên cứu và thi hành các hiệp ước giúp cải thiện đời sống dân chúng.
Nhưng sau 4 tháng, Cụ từ nhiệm vì nhận thấy dã tâm của thực dân không bao giờ muốn thi hành đúng đắn hiệp ước lại còn trắng trợn bác bỏ các đề nghị hữu lý của Cụ và còn tăng gia những hành động đàn áp các tổ chức có khuynh hướng mới.
II.- 1933-1954
Sau khi từ quan, Cụ trở về dậy học tại trường Providence Huế và cũng từ thời gian ấy Cụ bí mật tổ chức phong trào Cách Mạng chống thực dân Pháp. Cụ liên lạc với các nhà Cách Mạng lão thành như các cụ Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng và Kỳ Ngoại Hầu Cường Ðể để học hỏi thêm kinh nghiệm.
Chính Cụ Phan Sào Nam đã ngưỡng mộ cụ Diệm như là một anh hùng cái thế mới hơn 30 tuổi đầu mà đã vì dân vì nước chống lại thực dân không màng danh vọng phú quý.
Phong trào của cụ phát xuất tại Huế và lan rộng đến hầu hết các tỉnh miền Trung đã bị Pháp theo dõi rình rập. Năm 1944, thực dân Pháp bố ráp phong trào của Cụ, nhưng Cụ đã nhanh chân trốn thoát sang Ai Lao, vì được người thân tín cấp báo.
Tháng 3 năm 1945, Nhật Bản lật đổ chính quyền Pháp ở Ðông Dương. Bảo Ðại tuyên bố Việt Nam Ðộc Lập. Toàn dân vui mừng và mong mỏi chí sĩ Ngô Ðình Diệm đứng ra lập Nội Các. Nhưng sau nhiều lần được Ðại Sứ Nhật tiếp xúc mời mọc, Cụ vẫn không nhận lời vì tìm hiểu được rằng quân phiệt Nhật cũng như thực dân Pháp đều không muốn cho Việt Nam độc lập mà chỉ cần Cụ ra làm bù nhìn cho chúng.
Cuối năm 1945, trên đường hoạt động từ Sàigòn ra miền Trung, Cụ Diệm bị Việt Minh bắt tại Tuy Hòa, đưa ra Bắc cầm tù hơn 4 tháng tại Tuyên Quang. Tháng 2 năm 1946, Hồ Chí Minh thấy rằng nhiều người đã nhận diện Việt-Minh là Cộng Sản trá hình nên muốn mời tù nhân Ngô Ðình Diệm tham gia chính quyền để làm bình phong.
Hồ chí Minh những tưởng sẽ đối diện với một con người hoàn toàn mất tinh thần, sẵn sàng khuất phục, nhưng ai ngờ lại chạm trán phải một người can đảm bất khuất dám nói thẳng vào mặt mình:
"Ông và Tôi đều có quan niệm hoàn toàn trái ngược nhau về dân tộc Việt Nam, các hành động của thủ hạ Ông đã chứng minh điều đó. Ông hãy trả lời cho tôi biết là tại sao Ông hãm hại anh tôi (Ngô Ðình Khôi) và Ông cứ nhìn thẳng vào mắt tôi xem tôi có phải hạng người khiếp sợ Ông không?"
Hồ Chí Minh không thành công trong việc chiêu dụ nên phải miễn cưỡng để Cụ Diệm ra đi.
Năm 1950, nhân dịp xuất ngoại dự năm Thánh, Cụ được linh mục Houssa giới thiệu sang Hoa Kỳ, trú ngụ tại tu viện Maryknoll, Lakewood TB New Jersey.Tại đây Cụ đã được mời đến nhiều Ðại Học danh tiếng Hoa Kỳ để diễn thuyết và gây được nhiều cảm tình và tiếng tăm với chính khách và dân chúng Mỹ.
Ðầu năm 1953, Cụ Diệm được người thân tín mời về Pháp để sửa soạn tham chính. Khi đó chính phủ Pháp đang bối rối về vấn đề Ðông Dương, dân chúng bắt đầu chán ngấy chiến tranh. Tại Việt Nam thì tình hình càng ngày càng sôi động, vì Nga Sô và Trung Cộng ồ ạt yểm trợ cũ khí cho Việt Minh đánh phá các vùng Việt Bắc và đã chiếm được vùng Cao Bắc Lạng làm căn cứ.
Chính phủ Pháp đưa tướng Navarre sang chiến trường Ðông Dương để mong cứu vãn tình thế. Ngày 29 tháng 11 nam 1953, Ðại Tá De Castries được đề cử chỉ huy trận Ðiện Biên Phủ. Mục đích của Pháp đem quân vào thung lũng Ðiện Biên là để nhử cho cộng quân xuất đầu lộ diện hầu có thể dùng vũ khí chiến lược tiêu diệt địch quân cũng như để chặn đường tiếp tế từ Ai Lao và Trung Cộng đến.
Ðầu năm 1954, Ông Bửu Hội được mời ra lập chính phủ Liên Hiệp chuyển tiếp thay thế Nguyễn Văn Tâm, nhưng quân đội vẫn do Nguyễn văn Hinh nắm giữ.
Ngày 3 tháng 2 năm 1954, trận Ðiện Biên Phủ mở màn. Những ước tính của tướng Navarre đều sai lầm và - gậy ông lại đập lưng ông. 12,000 quân Pháp đã bị 51,000 cộng quân vây hãm tứ phía. Ngày 7-5-1954 Ðiện Biên Phủ thất thủ với kết quả là 10,000 quân Pháp bị bắt làm tù binh và hơn 2,000 chết và bị thương.
Ngày 24 tháng 6 năm 1954, Cụ Diệm lên đường về nước để lập chính phủ theo lời mời của quốc trưởng Bảo Ðại. Ngày song thất 7-7-1954 Cụ Diệm chính thức nhận quyền Thủ Tướng. Mời cụ Diệm về cầm quyền trong một tình thế hoàn toàn đen tối và vô hy vọng này họ chỉ có dụng ý duy nhất là đốt cháy tương lai chính trị của Cụ mà thôi. Chính Cụ cũng biết dã tâm của họ như vậy, nhưng Cụ đã nói: "Ðây là hy vọng của Tôi, nếu để trễ quá thì không còn hy vọng nào nữa. ". Trong nước lúc bấy giờ ai cũng chỉ còn hy vọng vào một mình Cụ.
III.- 1954 - 1963
Ngày 21 tháng 7 năm 1954, Hiệp Ðịnh Genève được ký kết giữa 2 phe Pháp và Việt Cộng, chia đôi đất nước Việt Nam lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới.
Bắt đầu từ tháng 8 năm 1954, công đầu của Cụ Diệm là đưa hơn một triệu đồng bào phía Bắc vĩ tuyến 17 vào định cư tại miền Nam. Cụ đã chỉ thị cho các chính quyền địa phương tích cực giúp đỡ công cuộc định cư bằng đủ mọi phương tiện, đem lại an sinh cho đồng bào tại vùng đất mới. Những vùng định cư mới DarLac, Ðức Lập, Bình Giả, Bình Thuận, Khánh Hòa, Tuyên Ðức, Long Khánh, Biên Hòa được phát triển nhanh chóng và tốt đẹp.
Ngay tại Sàigòn, thì Cụ gặp nhiều trở ngại lớn lao vì những sự phá rối của tay sai thực dân cũng như của nhóm Bình Xuyên. Tháng 10 năm 1954, một cuộc biểu tình tuần hành ủng hộ cụ Diệm tại trung tâm thành phố bị công an Bình Xuyên cản trở, nổ súng giết hại mất 6 người. Cụ Diệm quá xúc động và chán nản đã định từ chức nếu không có sự cản ngăn và khuyến khích của một vị cố vấn tinh thần.
Ðược khích lệ, Cụ tiếp tục công cuộc định cư và dần dần tiếp xúc với các giáo phái Cao Ðài, Hòa Hảo để ủng hộ Cụ hay ít ra cũng đứng ra ngoài cuộc tranh chấp của Cụ với Bình Xuyên. Cụ kêu gọi được tướng Trình Minh Thế về phe và cuộc dẹp loạn Bình Xuyên cùng tay sai thực dân bắt đầu.
Song song với chương trình định cư, Cụ còn để tâm cải tổ guồng máy hành chánh, quân bằng nhân sự và trẻ trung hóa quân đội, xóa dẹp nhiều tệ đoan xã hội.
Ngày 23 tháng 10 năm 1955, qua sự trưng cầu dân ý, toàn dân bỏ phiếu quyết định xóa bỏ chế độ quân chủ và bầu Cụ Ngô Ðình Diệm làm Tổng Thống. Ngày 26 tháng 10 năm 1956, Cụ Diệm trở thành Tổng Thống đầu tiên của Việt Nam Cộng Hòa. Dư luận trong và ngoài nước nhất là tại Hoa Kỳ rất thuận lợi cho Cụ. Thế giới tự do đã coi Cụ là một nhà lãnh đạo sáng chói nhất Á Châu, một chiến sĩ chống Cộng tài ba nhất thế giới. Còn còn được gán cho danh hiệu "Churchill của Việt Nam."
Từ một tình thế hoàn toàn tuyệt vọng, đến một tương lai sán lạn, một miền Nam tự do được gần 50 quốc gia trên thế giới công nhận, trong vòng 2 năm trời thật là một thành công hiếm có.
Từ năm 1956 đến 1960 được coi là thời kỳ cực thịnh của Ðệ I Cộng Hòa. Rừng núi hoang vu được khai khẩn thành dinh điền trù phú, đồng khô đất nẻ đã biến thành ruộng lúa phì nhiêu. Bảo đảm an sinh cho đồng bào rồi, Cụ gia tăng nỗ lực phát triển văn hóa xã hội, cải tiến nền giáo dục, chỉnh đốn Viện Ðại Học Sàigòn, thành lập Viện Ðại Học Huế.
Tháng 10 năm 1959, Cụ giáng xuống đầu Cộng Sản một đòn chí tử đầu tiên bằng cách cho thi hành chiến dịch "Tố Cộng" trên toàn quốc nhằm mục đích vạch mặt chỉ tên những phần tử Việt-Cộng nằm vùng.
Thuở đầu, Hồ Chí Minh và bè lũ đều nghĩ là thời gian, quá lắm là năm ba tháng sẽ làm tiêu tan sự nghiệp của Cụ Diệm, nhưng sau kết quả trái ngược, nên CSBV đã chỉ thị cho tay sai nằm vùng bắt đầu tái hoạt động và đưa cán bộ từ Bắc xâm nhập miền Nam để khủng bố và gây rối loạn, đồng thời trên địa hạt quốc tế chúng vu khống cho Cụ Diệm làm tay sai cho đế quốc Mỹ.
Cụ Diệm phản công ngay bằng quốc sách Ấp Chiến Lược từ đầu năm 1962 đến tháng 5 năm 1963, nhằm mục đích qui tụ nông dân Quốc Gia vào với nhau đồng thời cô lập hóa VC ra khỏi Ấp.
Sau khi xâm chiếm miền Nam năm 1975, chính VC đã phải thú nhận rằng những Ấp Chiến Lược trong thời Ðệ I Cộng Hòa đã đem lại cho chúng những khó khăn, trở ngại, lo sợ và phiền phức nhất trong cuộc chiến.
Chính Biến 1-11-1963
Chính biến 1-1-1963 đã kết thúc đời Cụ Diệm trong chiếc Thiết vận xa M-113 khoảng 8 giờ 30 sáng ngày 2-11-1963 trên con đường Hồng Thập Tự.
Cụ Diệm chết đi, dân tộc Việt Nam đã mất đi một vị Tổng Thống anh linh tài đức có một không hai trong lịch sử và mảnh đất thân yêu miền Nam Việt Nam cũng đa rơi vào tay Cộng Sản sau ngày 30.4.1975.”

Trước khi bàn về những nhận định của ông Ngô Đình Diệm trong cuộc chiến 1945-1963 có lẻ ta nên xem xét uy tín và công việc lãnh đạo của ông để chống làn sóng xâm lăng của CSVN qua các nhận định của những vị nguyên thủ quốc tế và quốc nội như sau :
Có thể nói nhân vật lịch sử nầy có nhiều nhận định trái ngược nhau ,người thì khen là một nhà ái quốc chân chính,người thì chê là cai trị độc tài,gia đình trị nhưng có thể nói ông là người mà được các nguyên thủ quốc gia Tây Phương ca ngợi nhiều nhất :
-Dwight D. Eisenhower: Ngô Đình Diệm, con người thần kỳ .
-Lyndon Baines Johnson: Ngô Đình Diệm, Churchill của thập kỷ tại Á Châu .
-Richard Nixon:Tổng Thống Ngô Đình Diệm ví như tảng đá đỉnh vòm. (keystone of a dome)
Trong nước thì có những nhận xét về ông như sau :
-Bảo Đại: Ngô Đình Diệm nổi tiếng là thông minh, liêm khiết.
-Phan Bội Châu ,một nhà ái quốc chống thực dân Pháp đã nhận định: Ông Ngô Đình Diệm là Chí sĩ, Vĩ nhân .
-Hồ Chí Minh : Mặc dù là kẻ thù của nhau nhưng Hồ chí Minh cũng phải công nhận :Ngô Đình Diệm là người tốt và yêu nước .

Nhân định về cuộc chiến VN từ 1945-1963 Tổng Thống Ngô Đình Diệm có những chủ trương như sau :

1- Ngay từ lúc còn là một tuần phủ trẻ tuổi( 31 tuổi) dưới triều đình nhà Nguyễn (vua Bảo Đại ) Ngô Đình Diệm đã có một tấm lòng yêu nước thiết tha,mưu tìm độc lập ,tự do cho Việt Nam nhưng bằng đường lối ôn hoà ,bất bạo động với hoài bảo giải trừ thực dân Pháp nhưng không cầu cạnh ngoại bang,vì ông cho rằng áp dụng chủ nghiã Cộng sản để giải trừ ách thực dân thì kết quả còn tệ hại hơnvì CSQT luôn áp đặt mục tiêu thôn tính toàn cầu,thiết lập chuyên chính vô sản toàn thế giới.Vua Bảo ại và nhà ái quốc Phan Bội Châu cũng đã kính trọng tấm lòng ái quốc của ông.Với chức vụ thượng thư Bộ Lại (Bộ Nội Vụ đứng đầu nội các )của Bảo Đại ông Ngô Đình Diệm đã can đảm từ chức vì thấy Pháp không thực tâm tôn trọng chủ quyền quốc gia và canh tân Việt Nam do Pháp cam kết bảo hộ.
Sau đó năm 1954 khi thế lực Pháp suy yếu,CSVN thì chạy theo chủ nghiả Quốc Tế Cộng sản làm tay sai cho Nga Tàu ,đối đầu với khối Tự Do do Tây Phương ủng hộ.Quốc Trưởng Bảo Đại một lần nửa lại mời ông đãm nhận chức thủ tướng để lèo lái con thuyền Quốc Gia còn non trẻ vừa chống với Thực dân ,vừa chống với chủ trương độc tài của Cộng sản .
2- Lập trường chính trị của Ngô Đình Diệm hoàn toàn khác xa với Hồ chí Minh,cho dù đang lúc bị CS giam giử , đích thân Hồ mua chuộc để hoạt động cho ông ta nhưng ông Diệm vẫn can đãm từ chối lời mời hợp tác với Hồ .
3- Tổng Thống Ngô Đình Diệm trong thời gian 9 năm điều hành đất nước (1954-1963)với chủ trương “ Đả Thực,Bài Phong,Tiểu Trừ Cộng Phỉ “ tức là đánh đuổi thực dân Pháp ra khỏi nước ta ,bão vệ Độc Lập nước nhà,bài trừ Phong Kién triều Nguyễn đem Tư Do Dân Chủ cho toàn dân,dẹp tan lủ giặc cướp Cộng sản để mọi người no ấm,thương yêu lẩn nhau . Ông Ngô Đình Diệm luôn luôn giử vững lập trường Quốc Gia chân chính: Bảo vệ chủ quyền,bảo vệ lãnh thổ ,không chấp nhận sự can thiệp của ngoại bang vào VN dù CSVN lúc đó tìm mọi cách xâm nhập bộ đội chính quy từ Bắc vào Nam ngày càng nhiều hơn. Bởi vì ông hiểu rỏ :chấp nhận sự có mặt của Hoa Kỳ vào Miền Nam sẽ làm mất đi chính nghiả cuộc chiến đấu tự vệ chống CS xâm lược và tạo cớ cho CSBV chống Mỹ cứu nước.
4- Cuộc chiến Việt Nam 1954-1963 là Cuộc Chiến Tự Vệ vì hoàn toàn không có hành động quân sự nào cuả Miền Nam tấn công ra Bắc ,ngược lại Miền Bắc đã vượt vĩ tuyến 17,xâm nhập và tấn công Miền Nam theo lệnh của CSQT. Dù vậyvới tấm lòng nhân ái,không muốn một cuộc chiến Huynh Đệ Tương tàn, Ông Ngô Đình Diệm một mặt lo chống đở đồng thời tiến hành những cuộc thương thảo với Miền Bắc để đi đến Hiệp Thương tránh đổ máu giửa người Việt với nhau.
Trong cuốn Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi tác giả Hoành Linh Đỗ Mậu có trích dẫn bức thư của ông Võ Như Nguyện: Cuối thư có đoạn thuật lại lời ông Diệm tâm sự với ông Nguyện:

“… Vả tôi với chú Nhu có ý dù hai miền Quốc Cộng tranh chấp nhưng đều là máu mủ ruột thịt, phải có biện pháp anh em giải quyết lấy chiến tranh, đỡ tốn hao sinh mạng, tài sản. Rồi bên nào kéo dài, chung quy sẽ bị lệ thuộc vào một cường quốc và đất nước chia rẽ, vì các cường quốc có ý định chia rẽ cả….” người ta sẽ thấy ông Diệm muốn tránh đổ máu chừng nào tốt chừng đó và không muốn để các cường quốc đắc lợi trong cuộc tranh chấp nội bộ,một cuộc Nội Chiến tại Việt Nam do CS chủ xướng.
Trong Nguyên Sa Hồi Ký (ấn hành năm 1998), giáo sư Trần Bích Lan, đã thuật lại chuyện ông và hai giáo sư Nguyễn Văn Phú và Nguyễn Xuân Nghiên đã có dịp nghe Tổng Thống Diệm trả lời một trong 3 câu hỏi của các ông một cách tương tự. Câu hỏi là tại sao ta không dồn lực lượng đánh một vài trận lớn để giải quyết chiến tranh mau chóng mà cứ đánh cầm chừng nhì nhằng như thế này.
Ông Diệm đã nói : “Bản chất cái chiến tranh này nó như thế. Mở rộng chỉ chết thêm lính và dân, mà cũng chẳng giải quyết được gì.” Ba mươi lăm năm sau, nhìn lại, nhà giáo và nhà thơ của chúng ta đã thấy câu trả lời của ông Diệm không phải ngụy biện như các ông nghĩ lúc trước, mà là những lời tiên đoán thời cuộc rất chính xác.
Những gì ông Ngô Đình Nhu nói trong một lễ bế mạc lớp học tập về Ấp Chiến Lươc khóa XII, ngày 22/6/1963… cũng tương tự như thế:
“Chúng ta là một nước nhỏ bé đứng giữa hai khối. Nếu bên thế giới tự do tăng cường viện trợ cho ta thì thế giới cộng sản cũng sẽ tăng viện trợ cho phía họ. Hai bên cứ tăng cường như vậy sẽ đưa cái mức chiến tranh càng ngày càng lên cao. Và số phận chúng ta rồi mai đây sẽ ra sao?”
Ngô Đình Diệm là người theo chủ nghĩa Dân Tộc và chống Cộng kiên quyết,chống lại sự can thiệp quân sự của Mỹ vào Việt Nam ,lập trường của ông rất dứt khoát ,Ông nói:
"Nếu quý vị mang Quân đội Mỹ vào Việt Nam, tôi phải giải thích thế nào đây với dân tộc tôi? Với người dân Việt, hình ảnh hãi hùng của Quân đội Viễn chinh Pháp còn hằn sâu trong tâm trí họ. Sự can thiệp của bất cứ quân đội ngoại quốc nào vào Việt Nam cũng đem lại sự bất lợi cho Việt Nam. "

Lập trường của ông Ngô Đình Diệm rỏ ràng là vì Quốc Gia,Dân Tộc không muốn làm “tiền đồn” cho ai cả vì sẽ phải lệ thuộc quá nhiều vào viện trợ Mỹ, và sẽ làm cớ cho Liên Xô và Trung Cộng nhảy vào xâu xé Việt Nam mà thôi.
Đây là một sự kiện lịch sử cần được xem xét cẩn thận,không nên vội lên gân và kết tội một cách vội vã là anh em ông Diêm muốn hiệp thương (thoả hiệp) với cộng sản hay là đâm sau lưng chiến sỹ.Bởi vì xét cho cùng thì 1972 tại sao Hoa Kỳ thương lượng với Trung Cộng thì được, còn hai miền cuả Việt Nam gánh chịu bao đau thương do chiến tranh thì không được thương lượngvới nhau trong tình Dân Tộc.(Khác với tình thế hiện nay ,2009 CSVN quyết tâm cai trị dân VN bằng đường lối độc tài sắt máu,không chấp nhận đối thoại và đối lập thì lại có một số người định chạy theo đường lối Hoà Hợp Hoà Giải bịp bợm của chúng!)
Nhận định về ông Ngô Đình Diệm của Minh Võ nhà khảo cứu lịch sử,một sỹ quan cấp tá nghành Tâm Lý Chiến QLVNCH đã viết như sau:
“Dưới ánh sáng của những sự kiện lịch sử vừa nêu, nhìn lại dĩ vãng, chúng tôi thấy sách lược đấu tranh mà hai anh em ông Diệm toan tính áp dụng tại Việt Nam trước khi các ông bị giết rất có cơ sở, và đáng lý nó đã phải thành công. Và nếu nó thành công thì miền Nam Việt Nam với danh xưng Việt Nam Cộng Hòa sẽ tồn tại trong một thời gian khá lâu: hoặc có thể thống nhất một cách vinh quang như nước Đức. Bằng không thì tối thiểu cũng tồn tại trong phú cường giống như Nam Hàn hay Đài Loan.”
“Còn thời 1962–1963 thanh thế của ông Diệm hơn hẳn ông Hồ. Nếu ông Diệm chịu liên hiệp là liên hiệp trong thế mạnh. Hãy tạm lấy một ví dụ đơn giản là hòa tan dung dịch có hai màu đối chọi; xanh đậm (Diệm) với hồng lạt (Hồ). Màu nào đậm hơn sẽ lấn át và thắng màu lợt. Dĩ nhiên thực tế chính trị phức tạp hơn, vì còn mưu sâu của con cáo nổi danh hơn người. Nhưng về điểm này ông Diệm đã có kinh nghiệm từ những bài học lịch sử nói trên với cộng sản. Hơn nữa ông Diệm không phải là một chính khách non nớt, không biết rõ đối phương như người ta tưởng.”
“Vì những lý do trên, theo ý kiến chủ quan của tôi, nếu, vâng, nếu, một chữ nếu không có trong lịch sử! nếu anh em ông Diệm không bị chết, và việc hiêp thương giữa hai miền Nam Bắc được thể hiện vào thập niên 60 thế kỷ trước, thì chẳng những Hoa Kỳ đã không phải đổ 2 triệu quân vào Việt Nam khiến hơn 58 ngàn lính Mỹ chết mà Việt Nam cũng tránh được một cuộc chiến tương tàn làm trên 3 triệu tử vong.”
Có nhiều ý kiến của người Việt Quốc Gia chưa đồng ý với nhận định của Minh Võ một cách hoàn toàn :
a- Họ chưa đồng ý là khi đưa ra đề nghị “Hiệp Thương” chưa chắc là ông Diệm ở vào thế mạnh hơn so với CSBV vì CSQT thì yểm trợ cho miền Bắc hết mình ,còn Hoa Kỳ vừa viện trợ vừa o ép miền Nam đi theo ý họ, đề nghị Hiệp Thương đưa ra quá sớm,dể gây cú sốc cho đồng minh Hoa Kỳ vốn rất cứng ngắc , độc đoán không bao giờ nghe lời đề nghị của bất cứ ai mà họ chỉ làm theo quyền lợi Mỹ theo từng giai đoạn thời cuộc.
b- Nên nhớ cuộc thương lượng về 1 giải pháp Hiệp Thương thời điểm đó chĩ mới bắt đầu,hiện không còn tài liệu nào được công bố nên chưa hiểu rỏ nội dung , ý muốn của mỗi bên ra sao,nên cũng không thể nói “Mèo nào cắn mĩu nào” vì cả hai bên đều có kinh nghiệm già dặn không dể gì ông Diệm chịu Hiệp Thương mà chịu phần thua thiệt đâu.Vã lại thái độ cứng rắn ,uy dũng của ông Diệm ngay cả khi bị CS bắt năm 1945 mà cũng không chịu khuất phục thì làm sao với thế ngang ngửa ông Diệm lại chịu thua thiệt.Không nên đem thành bại mà luận anh hùng,dù sao thì sự can đảm cuả ông Diệm dám xem xét vấn đề Hiệp Thương dù không có sự đồng ý của Mỹ quả là 1 hành động đáng khâm phục hơn là chê trách. Vả lại trong thời điểm 1972 khi Hoa Kỳ thương lượng với Trung Cộng để mưu tìm hoà bình cho cuộc chiến thì không thể nào nói TT Nixon là phản quốc (Hoa Kỳ) vậy tại sao ta lại vội vả lên án ông Ngô Đình Diệm có ý phản bội quốc gia.
c- Có người cả nghi thì cho rằng Hồ là con cáo già trong khi hai bên thảo luận mà tung tin ra ngoài ,lập mưu nầy để mượn tay Mỹ hãm hại ông Diệm vì vậy mà Mỹ bật đèn xanh cho các tướng lãnh giết ông Diệm vì không theo đúng đường lối của Mỹ.Xin thưa đó là lập luận cuả CS,muốn đánh bóng Hồ và hạ uy tín của ông Diệm mà thôi. Ông Diệm đã nhờ trưởng đoàn Ba Lan trong ủy hội Kiểm Soát Đình Chiến là Mieczyslaw Maneli và còn có đại sứ Ý Giovanni d’Orlandi và đại diện của Vatican tại Việt Nam là Đức Cha Salvatore D’Asta cùng nhiều người khác nửa để làm trung gian thương lượng, đồng thời Ông Diệm , ông Nhu cũng đã công bố 1 cách bán chính thức,bán công khai cuộc Hiệp Thương nầy thì rỏ ràng hai ông đã lượng định kỷ càng và không quá ấu trỉ về chính trị như một số người lầm tưởng. Hoa Kỳ thì có nhiều kinh nghiệm trận địa chiến ,nhưng với chiến tranh du kích thì họ hoàn toàn mới mẻ ,vì thế các tướng lãnh HK thoạt đầu khi vào VN, họ nghĩ rằng có thể dể dàng thắng cuộc chiến tại VN,nhưng sau đó thì họ đã nghĩ khác sau khi tổn hao 58.000 binh sĩ thì họ mới đi tìm 1 giải pháp thương lượng.Còn ông Diệm và ông Nhu thì biết rất rỏ thực chất cuộc chiến là Cộng sản Bắc Việt chỉ là kẻ thừa hành cho Cộng sản Quốc Tế cần phải lôi kéo họ về với Dân Tộc.Chỉ tiếc là đề nghị Hiệp Thương nầy có lẻ quá sớm vì sau đó năm 1968-1972 thì Hoa Kỳ mới cố công tìm kiếm sự thương lượng giửa HK và Trung Cộng để mưu tìm 1 giải pháp ổn định Đông Nam Á mà không tổn hao sinh mạng đôi bên.
d- Ngày nay (2009)vị thế Quốc Cộng khác hẳn 1961 ,CSVN đang cầm quyền trên toàn cỏi Việt Nam bằng biện pháp ngoan cố,vá víu Xả Hội Chủ Nghiả thì dỉ nhiên áp dụng hoà hợp hoà giải với CSVN là đầu hàng,là trở cờ thì đáng bị lên án.Chừng nào CSVN chịu từ bỏ CNXH,bải bỏ toàn bộ Hiến Pháp ,chấp nhận “Trưng cầu Dân ý”một cách thành khẩn thì ngày đó mới hết đấu tranh đòi hỏi Dân Chủ cho VN.


Tóm tắt các nhận định cuả ông Ngô Đình Diệm tổng thống VNCH về cuộc chiến thời kỳ 1954-1963 như sau:
-Nhận viện trợ của các nước Đồng Minh giúp đở tài thiết và khôi phục VN,nhưng không chấp nhận đổ quân vào Miền Nam vì sẽ làm mất chính nghiả.
-Từ năm 1958 ông Diệm và Nhu đã đề ra chính sách Tam Túc,Tam Giác (tức là tự túc về Tư Tưởng ,tự túc về Tổ Chức,Tiếp liệu,Tự túc về Kỹ thuật. Tam giác là Tự giác bão vệ Sức Khoẻ, Đạo Đức,Trí Tuệ) để chống Cộng Sản theo cách VN mà không bị ngoại bang chèn ép. Không chấp nhận thể chế CS và đặt CS ra ngoài vòng Pháp Luật vì CNCS không có lợi cho Dân Tộc VN .
-Thời điểm 1956 , ông Diệm không chấp nhận Hiệp Thương vì lúc đó miền Nam chưa ổn định chính trị ,trong khi CS đã âm mưu cài 60.000 cán bộ ở lại trong Nam để khi bấu cử trong Tổng Tuyển Cử sẽ đem thắng lợi cho CS, điền nầy rỏ ràng đánh tan luận điệu của CSVN :sở dỉ có chiến tranh Nam Bắc là vì Miền Nam tầy chay Hiệp Thương,nhưng sau đó chúng ta thấy rỏ là từ 1960-1963 Miền Nam có cứu xét và thảo luận Hiệp Thương với Miền Bắc để tránh Nội Chiến trong khi đó thì Hồ và đảng CSVN cứ khăng khăng chủ trương “Xâm lăng Miền Nam” bằng mọi giá.Rỏ ràng hai chủ trương của 2 bên hoàn toàn khác nhau về mặt Nhân Ái .


Phụ đính :Nhận định cuộc chiến của ông cố vấn Ngô Đình Nhu bào đệ của cố TT Ngô Đình Diệm một chiến lược gia,lý thuyết gia,một thủ lảnh của đảng Cần Lao Nhân Vị qua quyển luận án chính trị nổi tiếng "Chính Đề Việt Nam "đã có những nhận định về cuộc chiến Việt Nam 1945-1963 như sau:

- http://chinhdevietnam.blogspot.com/2009/11/chinh-e-viet-nam-luan-chinh-tri-cua-ong.html Trang blog của Long Điền đăng toàn bộ quyển "Chính Đề Việt Nam "198 trang đã có ấn bản in năm 2004 .
-http://vietcatholic.net/News/Html/72733.htm Quan Điểm của Ông Ngô Đình Nhu về Hiểm Họa Xâm Lăng của Trung Cộng .Nhận định của T/S Phạm Văn Lưu:
"Về nội dung tác phẩm, có lẽ phần cuốn hút được sự ngưỡng mộ nhất của người viết là, trước đây gần nữa thế kỷ, ông Nhu đã nhận xét Liên Sô sẽ tự giải thể để làm hòa với Tây Phương và Trung Cộng sẽ thất bại trong việc sử dụng chủ nghĩa Cộng Sản để phát triển kinh tế, cũng như Âu Châu sẽ tập hợp lạii với nhau trong một khối thống nhất như Khối Liên Hiệp Âu Châu ngày nay.
…Sự Thiển Cận Của Nhà Cầm quyền Hà Nội :

Sự xâm lăng của Trung Quốc đối với Việt Nam có tính cách trường kỳ, nhưng những nhà lãnh đạo Hà Nội vì thiển cận và vì quyền lợi hẹp hòi của Đảng Cộng Sản và cũng có thể vì quyền lợi cá nhân ích kỷ của những vị lãnh đạo, đã không ý thức hiểm họa xâm lăng khiếp hải đó của Trung Quốc, họ đã xem nhẹ quyền lợi của quốc gia, dân tộc, đã liên kết với Trung Cộng và Liên Sô, đánh mất đi cơ hội ngàn năm một thuở, là khai thác những mâu thuẫn giữa hai khối Tây Phương và Liên Sô sau Thế Chiến Thứ Hai, để khôi phục độc lập và nhận viện trợ của cả hai khối để phát triển dân tộc…như Ấn Độ. Trái lại, việc cam tâm làm chư hầu cho Trung Cộng và Liên Sô đã đưa Việt Nam vào cuộc chiến tranh với Tây Phương một cách vô nghĩa và phi lý, và đã đem lai một hậu quả vô cùng khủng khiếp cho cả dân tộc, đó là sự hủy diệt toàn bộ sinh lực của quốc gia, cả về phương diện tinh thần lẫn vật chất và sinh mang của người Việt, trong suốt hơn 30 năm… Nhưng còn tệ hại hơn nữa, là sự nhận viện trợ đó từ Trung Cộng đã là tiền đề để rước họa xâm lăng từ phương Bắc vào Việt Nam ngày nay.
Từ những năm đầu của thập niên 1960, ông Nhu đã nhìn thấu suốt được hiểm họa xâm lăng truyền kiếp đó như sau:

"Trong lịch sử bang giao, giữa chúng ta và Trung Hoa, các biến cố xảy ra đều do hai tâm lý đối chọi nhau. Từ năm 972, sau khi đã nhìn nhận độc lập của Việt Nam rồi, lúc nào Trung Hoa cũng nghĩ rằng đã mất một phần lãnh thổ quốc gia, và lúc nào cũng khai thác mọi cơ hội đưa đến, để thâu hồi phần đất mà Trung Hoa xem như là của họ. Bên kia, Việt Nam lúc nào cũng nỗ lực mang xương máu ra để bảo vệ nền độc lập của mình. Tất cả các sự kiện, xảy ra giữa hai quốc gia, đều do sự khác nhau của hai quan niệm trên."
…."Ý cố định của Trung Hoa là đặt lại nền thống trị và không lúc nào Trung Hoa thỏa mãn với sự thần phục và triều cống của chúng ta. Ngay những lúc mà quân đội chúng ta hùng cường nhất, và chiến thắng quân đội Trung Hoa, thì các nhà lãnh đạo của Việt Nam cũng khôn ngoan, tìm cách thỏa thuận với Trung Hoa và tự đặt mình vào chế độ thuộc quốc. Nhưng, điều mà Trung Hoa muốn không phải là Việt Nam chỉ thần phục và triều cống. Trung Hoa, suốt gần một ngàn năm lịch sử, lúc nào cũng muốn lấy lại mảnh đất mà Trung Hoa coi như bị tạm mất."
…Xem thế đủ biết rằng, đối với dân tộc chúng ta họa xâm lăng là một mối đe dọa thường xuyên. (tr. 166)

Do đó, Trung Hoa của Mao Trạch Đông, cũng như Trung Hoa của các triều đại Nguyên, Tống, Minh, Thanh là một đe dọa truyền kiếp.

Sùng Bái Chủ Nghĩa Cộng Sản là một Sai Lầm Nghiêm Trọng
….Từ đây, chiến cuộc Việt Nam, biến thành một chiến trường quân sự và địa phương của cuộc tranh chấp giữa Nga Sô và Tây phương. Những mâu thuẫn giữa Nga Sô và Tây phương mà, đúng lý ra, phải được dùng để phát triển dân tộc, lại trở thành những khí giới gieo rắc sự chết cho toàn dân. Những yếu tố của một cơ hội phát triển đã biến thành những khí cụ của một tai họa.

"Đồng thời, điều này vô cùng quan trọng cho chúng ta, sự chi phối của Trung Hoa, và sau lưng sự chi phối, sự đe dọa xâm lăng của Trung Hoa, mà chúng ta đã biết là vô cùng nặng nề, một cách liên tục, cho chúng ta trong hơn tám trăm năm, tạm thời đình chỉ trong gần một thế kỷ Pháp thuộc, đã bắt đầu hoạt động trở lại dưới các hình thức viện trợ và cố vấn quân sự cho quân đội của Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam."
…"Sự lệ thuộc nói trên và sự chia đôi lãnh thổ đã tạo hoàn cảnh cho sự chi phối và sự toan thống trị của nước Tàu đối với Việt Nam tái hiện dũng mãnh, sau gần một thế kỷ vắng mặt. Ký ức của những thời kỳ thống trị tàn khốc của Tàu đối với chúng ta còn ghi trong mỗi trang lịch sử của dân tộc và trong mỗi tế bào của thân thể chúng ta.

"Các nhà lãnh đạo miến Bắc, khi tự đặt mình vào sự chi phối của Trung Cộng, đã đặt chúng ta trước một viễn ảnh nô lệ kinh khủng. Hành động của họ, nếu có hiệu quả, chẳng những sẽ tiêu diệt mọi cơ hội phát triển của chúng ta, mà lại còn đe dọa đến sự tồn tại của dân tộc. "

"Sở dĩ, tới ngày nay, sự thống trị của Trung Cộng đối với Việt Nam chưa thành hình, là vì hoàn cảnh chính trị thế giới chưa cho phép, và sự tồn tại của miền Nam dưới ảnh hưởng của Tây phương là một trở lực vừa chính trị vừa quân sự cho sự thống trị đó. Giả sử mà Nam Việt bị Bắc Việt thôn tính, thì sự Trung Cộng thôn tính Việt Nam chỉ là một vấn đề thời gian."

"Trong hoàn cảnh hiện tại, sự tồn tại của miền Nam vừa là một bảo đảm cho dân tộc thoát khỏi ách thống trị của Trung Cộng, vừa là một bảo đảm một lối thoát cho các nhà lãnh đạo Cộng Sản Bắc Việt, khi họ ý thức nguy cơ họ đang tạo cho dân tộc. Nhưng ngày nào họ vẫn tiếp tục thực hiện ý định xâm chiếm miền Nam thì họ vẫn còn chịu sự chi phối của chính sách chiến tranh xâm lăng của Trung Cộng, thay vì chính sách sống chung hòa bình của Nga Sô."

3-Tổng Thống Nguyễn van Thiệu :

Nguyễn Văn Thiệu (1923-2001)

Tiểu sử:
Ông Nguyễn Văn Thiệu sinh ngày 11 Tháng 12, 1924 tại làng Trí Thủy gần tỉnh lỵ Phan Rang, tỉnh Ninh Thuận. Ông lập gia đình tại Mỹ Tho với Cô Nguyễn Thị Mai Anh, có ba con và một con nuôi. Ông thụ huấn Khóa Sĩ Quan Căn Bản Bộ Binh tại trường Coetquidan (Pháp quốc, 1949 và tốt nghiệp tháng Sáu 1950). Ông được bổ nhiệm Chỉ huy trưởng Trường Võ Bị Đà Lạt QGVN tại Đà Lạt tháng 3, 1955. Ông đi Okinawa, Nhật năm 1962 thụ huấn tại trường Chỉ Huy Tham Mưu Thái Bình Dương, sau đó giữ chức Tư Lệnh Sư đoàn 5 Bộ Binh Biên Hòa . Năm 1964 được vinh thăng Thiếu tướng, rồi Trung Tướng năm 1965 và bắt đầu vào chính trường với chức vụ Phó Tổng Thống kiêm Tổng Trường Quốc Phòng trong chính phủ Phan Huy Quát, kiêm luôn chức vụ Chủ Tịch Hội Đồng Quân Lực. Năm 1965 ông được tín nhiệm trong chức vụ Chủ Tịch Uỷ Ban Lãnh Đạo QG. Đắc cử Tổng Thống nền Đệ Nhị CH trong hai nhiệm kỳ kể từ tháng 9, 1967.
Tháng Tư, 1975 trước áp lực của Hoa Kỳ và Cộng Sản Hà Nội ông từ chức Tổng Thống VNCH. Sau khi rời quê hương ông sống một thời gian tại Luân Đôn, Anh Quốc. Năm 1985 ông định cư tại HK và sống tại West Newton và sau đó Foxboro thuộc tiểu bang Massachusetts.
Ông tạ thế ngày 29 tháng 9, 2001 tại Bệnh viện Beth Israel Deaconess, Thành phố Boston, MA, hưởng thọ 78 tuổi.
- Trong suốt thời gian giử trách nhiệm lãnh đạo quốc gia ,tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã thực hiện được những điều như sau :

* Về quân sự, cố TT Nguyễn Văn Thiệu, trong trách vụ Tổng Tư Lệnh Quân Ðội, ông đã lãnh đạo QLVNCH, gây cho cộng sản những thất bại nặng nề qua 3 đợt tổng công kích năm Tết Mậu Thân (1968), đã có 100 ngàn bộ đội chính quy, du kích, cán bộ cơ sở nằm vùng đã bị loại khỏi vòng chiến. Sau đó, chiến tranh khốc liệt vẫn tiếp diễn, năm 1972, một lần nữa với sự lãnh đạo sáng suốt của ông, QLVNCH đã đẩy lui các cuộc tổng tấn công của Cộng sản Bắc Việt trên các mặt trận Trị Thiên, Komtum và Bình Long. Trong khi mặt trận còn nặc mùi thuốc súng, nóng bỏng, Cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã không ngại hiểm nguy, đích thân đến chiến trường để ủy lạo và tưởng thưởng các chiến sĩ anh hùng của quân lực.

* Về chính trị, ông đưa ra Lập trường 4 KHÔNG làm chỉ nam cho sách lược chính trị của chính phủ VNCH là KHÔNG THỪA NHẬN CỘNG SẢN, KHÔNG TRUNG LẬP HÓA MIỀN NAM, KHÔNG LẬP CHÍNH PHỦ LIÊN HIỆP và KHÔNG NHƯỢNG ÐẤT CHO CỘNG SẢN.
Cố TT VNCH Nguyễn Văn Thiệu đáng được lịch sử ghi nhận như sau:

- Ông là một vị Tổng Tư Lệnh dũng mãnh, không ngại hiểm nguy, đã đến tận chiến trường khi trận chiến còn nặc mùi khói súng để ủy lạo và tưởng thưởng các chiến sĩ anh hùng. -Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu là con người bình dị, đó là bản tính chân thật của ông không hề dàn cảnh,phô trương và ông luôn luôn rất gần với lính, ông đã có mặt trong bất cứ trận địa nào dù nguy hiểm đến đâu ông cũng đều có mặt để an ủi và uỷ lạo tinh thần chiến đấu của chiến sĩ VNCH.

- Ông là một chiến sĩ đấu tranh cho TỰ DO chống Cộng sản độc tài đảng trị.
- Ông còn là một chiến sĩ cho đấu tranh cho DÂN CHỦ đã có công sáng lập nền đệ nhị Cộng hòa cho miền Nam, xây dựng một thể chế DÂN CHỦ PHÁP TRỊ cho nhân dân miền Nam mặc dù đất nước đang bị chiến tranh xâm lăng dày xéo .
-Ông là người cương quyết bão vệ lãnh thổ với quyết tâm không để một tất đất nào lọt vào tay ngoại bang, điển hình trong vụ hẩi chiến Hoàng Sa ngày 19 tháng 1năm 1974 với cương vị tổng tư lệnh QLVNCH ông đã chỉ thị cho Hải Quân Vùng I Chiến Thuật dù hoả lực yếu hơn,dù cô thế (không được Đệ Thất Hạm Đội Mỹ hỗ trợ ) tấn đoàn công tàu chiến Trung Cộng đã ngang nhiên xâm chiếm Hoàng Sa.Trái ngược lại với hành động đê hèn của Bắc Việt gởi công hàm công nhận Hoàng Sa Trường Sa là của Trung Cộng!
- Và trên hết, Ông là một NHÀ ÁI QUỐC CHÂN CHÍNH đã không ngại hy sinh thân thế và sự nghiệp để đấu tranh cho người dân miền Nam có một nền hòa bình công chính trong Tự do và Dân chủ với chủ trương "Bốn Không". Chính mục tiêu tối hậu nầy mà ông đã sẳn sàng từ bỏ cương vị Tổng Thống để các cường lực chính trị sấp xếp một giài pháp chính trị cho Việt Nam".

Nhận định về cựu tổng thống Nguyễn Văn Thiệu của Chủ Tich Hạ Viện Nguyễn Bá Cẩn viết năm 2001 như sau :
“ Tôi nhận thấy Ông là một Lãnh tụ chánh trị cẩn trọng, cương nghị, và trên hết, Ông là người yêu nước. Ông ngày đêm lo âu về vận mệnh quốc gia, không ngừng toan tính về sự tranh thắng ngoài chiến trường chống kẻ thù, cũng như trên bàn hội nghị hòa đàm vừa chống kẻ thù và cay nghiệt thay, vừa đối phó với ngay cả đồng minh của mình.”
- Vào năm 1992, tại Hoa Kỳ ông đã lên tiếng tố cáo sự xích lại gần nhau giữa chính phủ Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhưng ít lâu sau ông lại có ý muốn tham gia vào các cuộc thảo luận hòa giải dân tộc, điều này đã làm một số người cực đoan tức giận, còn tướng Trần Văn Đôn nhận xét qua hồi ký của mình (xuất bản năm 1997) thì ông Thiệu là người thức thời với chủ trương đối thoại giửa người trong nướcvới nhau dù khác chính kiến.

- Những quốc sách quan trọng của TT Nguyễn Văn Thiệu đã đạt những thành công rực rở:

1-Luật Người Cày Có Ruộng :
Vào năm 1970 TT Đệ Nhị VNCH Nguyễn Văn Thiệu đã ban hành Luật "Người Cày Có Ruộng" qui định ruộng đất không trực canh đương nhiên bị truất hữu và phải được bồi thường thoả đáng theo thời giá. Ruộng đất truất hữu được ưu tiên cấp phát cho tá điền (3 mẫu ở Nam phần và 1 mẫu ở Cao Nguyên và Trung phần). Điền chủ trực canh chỉ được giữ tối đa 15 mẫu. Tuy nhiên, Luật "Người Cầy Có Ruộng" không được phép áp dụng đối với ruộng đất của các tổ chức tôn giáo và ruộng đất hương hỏa gia đình của người dân.
Ở Miền Nam Việt Nam, phương thức sản xuất nông nghiệp kiểu phong kiến đã bị xoá sạch. Những phương pháp canh tác mới có tiến bộ kỹ thuật đã được áp dụng để gia tăng năng suất. Sau khi hoàn tất chương trình Người Cày Có Ruộng trong những năm 1970-1973 nước Việt Nam Cộng Hoà đã có 80 phần trăm tư sản trung nông hoá và thành phần nông dân này là lực lượng chính của sản xuất nông nghiệp ở Miền Nam Việt Nam.Còn lại khoảng 20 phần trăm là phú nông và tư sản trung nông giàu sở hữu chừng 10 phần trăm ruộng đất canh tác. Số người nông dân giàu có này ngoài việc canh tác số ruộng đất sau khi đã truất hữu còn lại, họ cũng kinh doanh các dịch vụ cơ khí nông nghiệp, lưu thông hàng hoá nông sản phẩm, chế biến thực phẩm nông sản trong một thị trường thương nghiệp nông thôn và lao động nông nghiệp rất tự do. Sau khi nước Việt Nam Cộng Hoà hoàn tất chương trình Người Cày Có Ruộng thì không còn thành phần đại-địa-chủ ở Miền Nam Việt Nam. Trong ba năm 1970-1973, kết quả của chương trình "Người Cày Có Ruộng" là đã chấm dứt chế độ tá canh ở Miền Nam Việt Nam khi tá điền trở thành điền chủ.

Qua hai so sánh vừa kể cho ta thấy chính sách Cải cách Điền Địa VNCH và CCRĐ cuả CSVN khác nhau ở 1 bên là giết người (phú nông,trung nông ,địa chủ) để cướp đất rồi nói là phát cho dân nghèo (thực tế là sau 2 năm CSVN đưa tất cả ruộng đất vào hợp tác xả nông nghiêp, thì nông dân nghèo cũng chẳng còn sở hữu đất đai gì cả. Còn Miền Nam theo chính sách của TT Nguyễn Văn Thiệu thì ruộng đ ất của đại địa chủ được chính phủ thu mua giá cả sòng phẳng rồi bán trả góp 12 năm cho nông dân nghèo.Đại địa chủ chỉ đưọc giử tối đa 15 mẩu nếu trực canh ,sau năm 1973 đã chấm dứt nạn "Tá canh " làm thuê ruộng của chủ điên vì nông dân đã được cấp,bán trả góp.
Sau 1975 đến nay thì sao? Hoàn toàn đất đai là thuộc sở hữu nhà nước ,người dân chỉ được quyền Sử Dụng Ruộng Đất tức là sổ đỏ .Có thể mua bán số đất của tổ tiên để lại ,còn c ác loại đất đai khác bất cứ lúc nào nhà nước cần trung dụng ,quy hoạch là phải bán với gía do chính quyền địa phương quy định! Một hình thức ăn cướp giửa ban ngày.Vì vậy có hàng ngàn nông dân hiện nay đi khiếu kiện đất ,chuyện xảy ra hàng ngày tại VN mà chính phủ không thể giải quyết nổi,có nông dân khiếu kiện,biểu tình gần 20 năm mà không được giải quyết.
2-Chương Trình Hữu Sản Hoá :
Chương trình nối tiếp từ thời TT Ngô Đình Diệm đến thời TT Nguyễn Văn Thiệu nhằm giúp đở ,cải tiến ngành nghề như xích lô đạp,xe thổ mộ,xe ba gác được mua trả góp xe lam,xe taxi ,biến những người thuê xe kiếm sống trở nên chủ nhân thực sự những phương tiện chuyên chở công cộng, vừa tạo đời sống khá hơn cho người lao động nghèo,vừa cải tiến phương tiện giao thông thô sơ ra phương tiện văn minh hơn.
3-Quốc sách Chiêu hồi :
Có thể nói trong suốt thời gian 10 năm cầm quyền của TT Nguyễn Văn Thiệu thì quốc sách “Chiêu Hồi” đã đạt sự thành công vĩ đại nhất .Chưa có thống kê của 2 năm 1974.1975 nhưng tính từ 1963-1973 đã có trên 200.000 hồi chánh viên trở về với chính nghiã Quốc Gia. Đây là một việc làm có ý nghiả nhất trong tình Dân Tộc,nghiả Đồng Bào vì các bạn thử tưởng tượng 200.000 cán binh cộng sản tương với quân số 20 sư đoàn đang cầm súng bắn đồng bào mình nay được kêu gọi bằng tấm lòng nhân ái trở về với chính nghiã quốc gia và sau đó họ được cho về đoàn tụ với gia đình của họ .
Biểu đồ quốc sách Chiêu Hồi đạt được từ năm 1963 đến đầu năm 1971.



Tem kỹ niệm ngày 18 tháng 2 năm 1973 là ngày đạt được người Hồi Chánh thứ 200.000 (Tương đương với quân số 20 sư đoàn )và giấy thông hành cho cán binh cộng sản muốn về hồi chánh.
Lời kêu gọi đại đoàn kết Dân Tộc nầy là việc làm thiết thực nhất và thành thật nhất vì đã được chứng minh cụ thể bằng lời hứa và việc làm đi đôi với nhau ,những hồi chánh viên không còn bị mặc cảm người đầu hàng mà họ được đối xử như người anh em lạc lỏng nay trở về với đại gia đình Dân Tộc.


Chiêu Hồi là Đại Đoàn Kết Dân Tộc Hình ảnh ngày trở về vui vẻ của những cán binh VC tại Tam Kỳ
Khi trở về với chính nghiả Quốc Gia ,các hồi chánh viên được thoải mái đoàn tụ với gia đình, đi du lịch và còn được học nghề theo nhu cầu của họ.

Học tập đường lói Quốc Gia ngày mới về. Các HCV Đi chơi tại Thảo Cầm Viên Saigòn . Một lớp dạy nghề tại Biên Hoà cho HCV


Những câu nói nổi tiếng cuả Ông Nguyễn Văn Thiệu khi nắm giử chức vụ Tổng Thống VNCH
“ Đừng nghe những gì Cộng sản nói, mà hãy nhìn kỹ những gì Cộng sản làm!
Ăn cơm Quốc gia thờ ma Cộng sản –
Biếm chỉ Cộng sản nằm vùng khủng bố miền Nam Việt Nam trước năm 1975
Công đức ngàn đời con tố mẹ, tình nghĩa trăm năm vợ tố chồng –
Biếm chỉ chính sách đấu tố của Cộng sản
Đất nước còn, còn tất cả; cộng sản thắng, mất tất cả.
Làm kẻ thù của Mỹ thì dễ, làm bạn với Mỹ thì rất khó.
Sống không có tự do là đã chết. ”
-Nhận định của TT Nguyễn Văn Thiệu về cuộc chiến 1945-1975 :
- Cuộc chiến tại Miền Nam VN là một cuộc chiến tự vệ,do phiá CSBV chủ mưu tấn công Miền Nam.Trả lời phỏng vấn của đài phát thanh BBC trước khi ký hiệp định ngưng bắn 1973, ông đã nói :
- “Tôi nghĩ rằng tự do và một cuộc sống tốt đẹp hơn của 17 triệu rưởi dân chúng ở miền Nam Việt Nam không những cho thế hệ này mà còn cho thế hệ mai sau. Tôi nghĩ rằng đó là cái giá mà dân chúng miền nam Việt Nam đã trả. Không một ai thích chiến tranh. Bản thân tôi cũng không thích chiến tranh. Có người nói với tôi rằng họ chống chiến tranh, và tôi cũng nói họ rằng tôi cũng chống chiến tranh”.
- Ông tin tưởng vào Tự Do ,Dân Chủ,vào chính nghiả Quốc Gia: “Tôi nghĩ rằng khi dân chúng tại miền nam Việt Nam có thể tự do phát biểu một cách dân chủ mà không sợ bị cộng sản cắt cổ chặt đầu, thì tôi có thể bảo đảm với ông rằng toàn thể dân chúng ở miền nam Việt Nam đều chọn tự do. ”
- Qua quốc sách Chiêu Hồi do ông thực hiện và đạt thành công vẻ vang ,ta thấy ông có tấm lòng nhân ái ,không muốn nhìn thấy canh chiến tranh giết chóc gìửa người Việt với nhau,nên đã dùng đường lối Chiêu Hồi mở 1 sinh lộ cho những cán binh Việt Cộng lầm đường lạc lối trở về với chính nghiả Quốc Gia chấm dứt cảnh nồi da xáo thịt.

(Xin xem tiếp chương 3)